Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2020

TỐNG SỬ MẠNH CỦNG TRUYỆN CHÚ DỊCH (QUYỀN 412) (宋史孟珙傳注譯(卷412)注譯)


Liên kết có liên quan mật thiết

Kim Sử Võ Tiên Truyện

Tống Sử Đỗ Cảo Truyện


Tống Sử quyển 412: Mạnh Củng truyện (宋史孟珙傳卷412)

孟珙,字璞玉,隨州棗陽人。四世祖安,嘗從岳飛軍中有功。嘉定十年,金人犯襄陽,駐團山,父宗政時爲趙方將,以兵禦之。珙料其必窺樊城,獻策宗政由羅家渡濟河,宗政然之。越翼日,諸軍臨渡佈陣,金人果至,半渡伏發,殲其半。宗政被檄援棗陽,臨陣嘗父子相失,珙望敵騎中有素袍白馬者,曰:「吾父也。」急麾騎軍突陣,遂脫宗政。以功補進勇副尉。

Mạnh Củng, tự là Phác Ngọc, người Tùy Châu, Tảo Dương. Ông tổ bốn đời là Mạnh An, từng theo quân Nhạc Phi lập công. Năm Gia Định thứ mười (8 tháng 2 năm 1217 đến 27 tháng 1 năm 1218), người Kim phạm Tương Dương, lưu quân ở Đoàn Sơn, cha là Mạnh Tông Chính bấy giờ làm tướng của Triệu Phương, lấy quân chống lại chúng. Củng tiên liệu chúng tất dòm ngó Phàn Thành, hiến kế cho Tông Chính, từ bến La Gia qua sông, Tông Chính đồng ý. Qua ngày thứ hai, chư quân bày trận đối mặt với bến sông, người Kim quả nhiên đến, [chúng] qua giữa sông thì quân mai phục đổ ra đánh, giết hết một nửa. Tông Chính bị gọi cứu Tảo Dương, đến chiến trường thì cha con lạc nhau, Củng nhìn thấy trong quân kỵ địch có người mặc áo trắng cưỡi ngựa trắng, nói: "Là cha ta đấy." Liền vội chỉ huy quân kỵ xung trận, cho nên giúp Tông Chính thoát được. Vì có công nên nhậm chức Tiến Dũng Phó Úy (1)

(1) Đây là chức quan võ nhỏ không thuộc phẩm nào (cấp quan).

十二年,完顏訛可步騎二十萬分兩路攻棗陽,環集城下,珙登城射之,將士驚服。宗政命珙取它道劫金人,破砦十有八,斬首千餘級,大俘軍器以歸,金人遁,以功升下班祗應。
Năm thứ mười hai (18 tháng 1 năm 1219 đến 5 tháng 2 năm 1220), Hoàn Nhan Ngoa Khỏa lĩnh bộ kỵ hai mười vạn phân hai đường tấn công Tảo Dương, tập trung vây quanh dưới thành, Củng lên thành bắn chúng, tướng sĩ kinh sợ khâm phục. Tông Chính lệnh cho Củng theo đường khác đánh ép người Kim, phá mười tám trại, chém hơn nghìn thủ cấp, lấy được nhiều quân khí mà về, người Kim chạy trốn, vì có công nên thăng chức Hạ Ban Chi Ứng (1)

(1) Hạ Ban Chi Ứng là chức quan võ cấp thứ mười ba, là chức quan thấp.

十四年,入謁制置使趙方一見奇之,辟光化尉,轉進武校尉。十六年,以功特授承信郎。丁父憂,制置使起復之,珙辭,訖葬趣就職,又辭,轉成忠郎。理宗即位,特授忠翊郎,尋差峽州兵馬監押兼在城巡檢,京湖制置司差提督虎翼突騎軍馬,又辟京西第五副將,權管神勁左右軍統制。

Năm thứ mười bốn (25 tháng 1 năm 1221 đến 12 tháng 2 năm 1222), vào yết kiến Chế Tri Sứ Triệu Phương (về sau chỉ ghi Chế Tri Sứ, ý đều chỉ Triệu Phương), mới gặp đã thấy Củng là người đặc biệt, trao chức Quang Hóa Úy (tức quan Úy huyện Quang Hóa), chuyển làm Vũ Giáo Úy. [Củng] chỉu tang cha, Chế Trí Sứ lại dùng Củng, Củng từ tạ, hết tang vội nhậm chức, lại từ tạ, chuyển làm Thành Trung Lang. Lý Tông lên ngôi, đặc cách trao chức Trung Dực Lang, không lâu sau sai làm Hạp Châu Binh Mã Giám kiêm Tại Thành Tuần Kiểm, Kinh Hồ Chế Trí Tư Sai Đề Đốc Hổ Dực Đột Kỵ Quân Mã, lại cho vời làm Kinh Tây Đệ Ngũ Phó Tướng, Quyền Quản Thần Kinh Tả Hữu Quân Thống Chế.

初,宗政招唐、鄧、蔡壯士二萬餘人,號「忠順軍」,命江海總之,衆不安,制置司以珙代海,珙分其軍爲三,衆乃帖然。紹定元年,珙白制置司創平堰于棗陽,自城至軍西十八里,由八疊河經漸水側,水跨九阜,建通天槽八十有三丈,溉田十萬頃,立十莊三轄,使軍民分屯,是年收十五萬石。又命忠順軍家自畜馬,官給芻粟,馬益蕃息。二年,升京西第五正將、棗陽軍總轄,本軍屯駐忠順三軍。明年,差京西兵馬都監。丁母憂。又明年,起復京西兵馬鈐轄、棗陽軍駐劄,仍總三軍。

Trước kia, Tông Chính chiêu mộ hơn hai vạn tráng sĩ ở Đường Châu, Đặng Châu, Sái Châu, gọi là "Trung Thuận Quân", lệnh Giang Hải thống lĩnh chúng, quân chúng bất an, Trí Chế Tư lấy Củng thay Hải, Củng phân quân ấy làm ba, binh sĩ bèn thuận theo. Năm đầu Thiệu Định (8 tháng 2 năm 1228 đến 26 tháng 1 năm 1229), Củng thưa với Chế Trí Tư lập Bình Yển ở Tảo Dương, từ thành đến phía tây quân doanh mười tám lí, từ sông Bát Điệp kinh qua bên Tiệm Thủy, nước chảy qua chín ngọn núi, đào kênh thông thiên tám mươi ba trượng, tưới tiêu ruộng đất mười vạn khoảnh, lập mười trang ba hạt, sai quân dân phân nhau đồn điền, năm ấy thu được mười lăm vạn thạch (lương). Lại lệnh Trung Thuận Quân mỗi nhà tự nuôi ngựa, quan cho cỏ thóc, ngựa tăng thêm nhiều. Năm thứ hai (27 tháng 1 năm 1229 đến 15 tháng 1 năm 1230), thăng chức Kinh Tây Ngũ Chính Tướng, Tảo Dương Quân Tổng Hạt (tức quan đạo quân tên Tảo Dương Quân), quân ấy đồn trú ở chỗ Trung Thuận ba quân (là quân Củng phân ở trên). Năm sau (16 tháng 1 năm 1230 đến 3 tháng 2 năm 1231), sai làm Kinh Tây Binh Mã Đô Giám. Chịu tang mẹ. Lại năm sau (4 tháng 2 năm 1231 đến 23 tháng 1 năm 1232), cho làm Kinh Tây Binh Mã Kiềm Hạt, Tảo Dương Quân Trú Tráp, thống lĩnh ba quân (Trung Thuận) như cũ.

六年,大元將那顏倴盞追金主完顏守緒,逼蔡,檄珙戍鄂,討金唐、鄧行省武仙。仙時與武天錫及鄧守移剌瑗相掎角,爲金盡力,欲迎守緒入蜀,犯光化,鋒剽甚。天錫者,鄧之農夫,乘亂聚衆二十萬爲邊患。珙逼其壘,一鼓拔之,壯士張子良斬天錫首以獻。是役獲首五千級,俘其將士四百餘人,戶十二萬二十有奇,乃授江陵府副都統制,賜金帶。
Năm thứ sáu (11 tháng 2 năm 1233 đến 30 tháng 4 năm 1234), Đại Nguyên (tức nhà Nguyên) tướng Na Nhan Bôn Trản (1) đuổi bắt vua Kim Hoàn Nhan Thủ Tự, bức Thái, lệnh Củng thủ Ngạc Châu, thảo phạt Đường Châu, Đăng Châu Hành Tỉnh Võ Tiên của nhà Kim. Võ Tiên lúc ấy cùng Võ Thiên Tích và Đặng Châu Thủ Thần Di Lạt Viện chia quân hai mặt thành thế gọng kìm đánh, vì Kim tận lực (tức hết sức phò ta vua Kim), muốn đón Hoàn Nhan Thủ Tự vào Thục (tức Tứ Xuyên), phạm vào Quang Hóa, thanh thế rất lớn. Võ Thiên Tích vốn là một nông phu ở Đặng, thừa lúc loạn lạc tập họp dân chúng hai mươi vạn làm mối lo ở biên cương. Củng tiến sát đến doanh trại hắn, một trận đánh bại hắn, tráng sĩ Trương Tử Lương chém đầu Thiên Tích đem dâng. Trận ấy lấy được năm nghìn thủ cấp, bắt được tướng sĩ của hắn hơn bốn trăm người, hơn mười hai vạn hai mươi hộ, bèn phong (Củng) làm Giang Lăng Phủ Phó Đô Thống Chế, tặng dây thắng lưng bằng vàng.

(1) Na Nhan Bôn Trản còn có tên là 塔察儿 Tháp Sát Nhi (Taγačar), Nguyên Sử có phần truyện cho vị tướng này (quyển 119, liệt truyện số 6).

制置司檄珙問邊事,珙曰:「金人若向呂堰,則八千人不爲少,然須木查、騰雲、呂堰等砦受節制乃可濟。」已而劉全、雷去危兩部與金人戰於夏家橋,小捷。有頃,金人犯呂堰,珙喜曰:「吾計得矣。」亟命諸軍追擊呂堰,進逼大河,退逼山險,砦軍四合,金人棄輜重走,獲甲士五十有二,斬首三千,馬牛橐駝以萬計,歸其民三萬二千有奇。瑗遣其部曲馬天章奉書請降,得縣五,鎮二十二,官吏一百九十三,馬軍千五百,步軍萬四千,戶三萬五千三百,口十二萬五千五百五十三。珙入城,瑗伏階下請死,珙爲之易衣冠,以賓禮見。

Chế Trí Tư gọi Củng hỏi biên sự, Củng nói: "Người Kim nếu đánh vào Lữ Yểm, thì tám nghìn người không phải là ít, nhưng phải để các trại Mộc Tra, Đằng Vân, Lữ Yểm chịu sự tiếc chế mới có thể cứu được." Không lâu sau hai cánh quân của Lưu Toàn và Lôi Khứ Nguy đánh nhau với người Kim ở cầu Hạ Gia, thắng nhỏ. Sau đó không lâu người Kim phạm Lữ Yểm, Củng mừng nói: "Kế ta đã thành." Liền gấp rút mệnh chư quân truy đánh Lữ Yểm, phía trước tiến sát sông lớn, phía sau lui sát núi non hiểm trở, quân trong trại bốn bề hội họp, người Kim bỏ xe truy trọng (tức xe chở quân nhu) chạy, bắt được quân sĩ mang giáp năm mươi hai người, chém ba nghìn đầu, bò, ngựa, lạc đà khoảng nghìn con, quy phục dân chúng hơn ba vạn hai nghìn người. Dĩ Thích Viện (1) sai bộ hạ Mã Thiên Chương cầm thư xin hàng, thu được năm huyện, hai mươi hai trấn, quan viên một trăm chín mươi ba người, kỵ binh một nghìn năm trăm, bộ binh một vạn bốn nghìn, ba vạn năm nghìn ba trăm hộ dân, nhân khẩu mười hai vạn năm nghìn năm trăm năm mươi ba người. Củng vào thành, Viện quỳ xuống bậc thềm xin chết, Củng thay áo cho y, lấy lễ đối đãi.

(1) Dĩ Thích Viện (移刺瑗 ?-1234), tự Đình Ngọc (廷玉) là người Khiết Đan, hưởng thế tập mảnh an (tương đương với chức vạn hộ đời Nguyên, thống lĩnh 10,000 trên giấy tờ). Do có công nên được làm Đặng Châu Tiện Nghi Tổng Soái. Năm Thiên Hưng thứ hai (1233), tướng Kim Võ Tiên sau khi thua lớn ở trận Tam Phong, đến Đặng Châu tìm lương. Thích Viện nghĩ Tiên muốn hại mình, bèn lấy Đặng Châu dâng Tống. Đến Tương Dương, Lưu Giới. Năm sau bệnh mất.

初,仙屯順陽,爲宋軍所撓,退屯馬蹬。金順陽令李英以縣降,申州安撫張林以州降,珙言:「歸附之人,宜因其鄉土而使之耕,因其人民而立之長,少壯籍爲軍,俾自耕自守,才能者分以土地,任以職使,各招其徒以殺其勢」制置司是之。七月己酉,仙愛將劉儀領壯士二百降,珙問仙虛實,儀陳:「仙所據九砦,其大砦石穴山,以馬蹬、沙窩、岵山三砦蔽其前;三砦不破,石穴未易圖也。若先破離金砦,則王子山砦亦破,岵山、沙窩孤立,三帥成禽矣。」珙翼日遣兵向離金,廬秀執黑旗帥衆入砦,金人不疑爲宋軍,乃分據巷道,大呼縱火,掩殺幾盡。是夜,壯士楊青等搗王子山砦,護帳軍酣寢,王建入帳中,斬金將首囊佩之,平明視之,金小元帥也。

Trước đó, Võ Tiên đóng quân ở Thuận Dương, bị quân Tống quấy nhiễu, lui đóng ở Mã Đặng. Thuận Dương Huyện Lệnh của nước Kim là Lý Anh lấy huyện hàng, Thân Châu An Võ Sứ Trương Lâm lấy châu hàng, Củng nói: "Những người quy phục, nên theo hương đất (của họ) mà cho cày cấy, dựa vào dân chúng mà lập thủ lĩnh, kẻ nào trẻ khỏe nhập hộ tịch tòng quân, khiến chúng tự cày cấy từ phòng vệ, người có tài phân cho đất đai, cho nhậm quan chức, chiêu tập đồ đảng để giảm thế lực chúng." Chế Trí Tư đồng ý việc ấy. Tháng bảy, kỷ dậu, ái tướng (tức tướng thân thuộc) của Võ Tiên  Lưu đem tráng sĩ hai trăm người hàng, Mạnh Củng hỏi tình hình của Võ Tiên, Nghi trần tình rằng: "Chín trại mà Võ Tiên ở, trong đó trại lớn Thạch Huyệt San, lấy Mã Đằng, Sa Oa, Hỗ San ba trại chắn phía trước, ba trại nếu không bị phá thì Thạch Huyệt không dễ lấy được. Nếu trước tiên phá trại Li Kim, thì trại Vương Tử Sơn cũng  bị phá, (các trại) Hỗ San và Sa Oa lẻ loi một mình, ba quân có thế chiếm lấy được." Củng hôm sau sai binh đánh Li Kim, Lư Tú cầm cờ đen chỉ huy quân chúng vào trại, người Kim không nghi là quân Tống, bèn phân nhau chiếm cứ mọi đường hẻm, lớn tiếng phóng hỏa, đánh úp giết gần như hết. Đêm đó, tráng sĩ là bọn Dương Thanh quấy nhiễu trại Vương Tử Sơn, quân bảo vệ lều trại đang say giấc, Vương Kiên vào trong lều, chém đầu tướng Kim bỏ vào túi mang đi, tới lúc bình minh xem thì ra là Nguyên Soái nhỏ của Kim.

丙辰,出師馬蹬,遣樊文彬攻其前門,成明等邀截西路,一軍圍訖石烈,一軍圍小總帥砦,火燭天,殺僇山積,餘逸去者復爲成明伏軍所得,壯士老少萬二千三百來歸。師還,至沙窩西,與金人遇,大捷。是日,三戰三克。未幾,丁順等又破默候里砦。珙召儀曰:「此砦既破,板橋、石穴必震,汝能爲我招之乎?」儀曰:「晉德與花腿王顯、金鎮撫安威故舊,招之必來。」乃遣德行,儀又請選婦人三百偽逃歸,懷招軍榜以向,珙從之。威見德,敘情好甚歡,介德往見顯,顯即日以書乞降。德復請珙遣劉儀候之。顯軍約五千,猶未解甲,珙令作栲栳陣;入陣,周視良久,乃去,如素所撫循;饗以牛酒,皆醉飽歌舞。珙料武仙將上岵山絕頂窺伺,令樊文彬詰旦奪岵山,駐軍其下,前當設伏,後遮歸路。已而仙衆果登山,及半,文彬麾旗,伏兵四起,仙衆失措,枕藉崖谷,山爲之赬,殺其將兀沙惹,擒七百三十人,棄鎧甲如山。薄暮,珙進軍至小水河,儀還,具言仙不欲降,謀往商州依險以守,然老稚不願北去,珙曰:「進兵不可緩。」夜漏十刻,召文彬等受方略,明日攻石穴九砦。丙辰,蓐食啟行,晨至石穴。時積雨未霽,文彬患之,珙曰:「此雪夜擒吳元濟之時也。」策馬直至石穴,分兵進攻,而以文彬往來給事。自寅至巳力戰,九砦一時俱破,武仙走,追及於鯰魚砦,仙望見,易服而遁。復戰於銀葫蘆山,軍又敗,仙與五六騎奔。追之,隱不見,降其衆七萬人,獲甲兵無算。還軍襄陽,轉修武郎、鄂州江陵府副都統制。

Bính thìn, xuất quân Mã Đằng, sai Phàn Văn Bân tấn công cổng trước, bọn Thành Minh cắt đứt đường phía Tây, một quân vây Cật Thạch Liệt, một quân vây trại Tiểu Tổng Sư, lửa chiếu rực trời, thây xác bị giết chất đống, dư đảng những kể chạy trốn bị phục quân của Thành Minh bắt được, tráng sĩ già trẻ một vạn hai nghìn ba trăm đến quy hàng. Quân quay về, đến phía Tây Sa Oa, gặp phải người Kim, đại thắng. Ngày hôm ấy, ba lần chiến ba lần thắng. Không lâu sau, bọn Đinh Thuận phá trại Mặc Hậu Lí, Củng gọi đến bàn rằng: "Trại này phá xong, thì các trại Bản Kiều, Thạch Huyệt tất chấn động, ngươi có thể vì ta chiêu hàng chúng không?" Nghi đáp: "Tấn Đức và Hoa Thối Vương cùng Trấn Thủ An Huy của Kim là chỗ quen biết cũ, chiêu hàng tất đến." Bèn lệnh Tấn Đức đi, Nghi lại xin tuyển ba trăm người đàn bà giả làm người chạy về, ôm cáo thị chiêu hàng quân mà đi, Củng ngheo theo. (An) Uy gặp Đức, trò chuyện rất vui vẻ, giới thiệu Đức gặp Vương Hiển, Hiển hôm ấy viết thư xin hàng. Đức lại xin Củng sai Lưu Nghi đi gặp Hiển, Quân Hiển khoảng năm nghìn người, vẫn chưa cởi khôi giáp, Củng lệnh bày trận Khảo Lão (không rõ trận Khảo Lão là trận gì, có phải là tên của một loại trận pháp không), nhập trận, nhìn xung quanh hồi lâu, rồi mới đi, vỗ về vẫn như thường ngày, lất thịt bò và rượu thết đãi, đều ăn no uống say ca hát nhảy múa. Củng tiên liệu rằng Võ Tiên sẽ lên đỉnh núi cao Hỗ Sơn trộm dò xét, lệnh Phàn Văn Bân sáng sớm giành lấy Hỗ Sơn, trú quân ở dưới, trước đặt mai phục, sau chẹn đường lui. Không lâu sau quân của Võ Tiên quả nhiên lên núi, đợi (chúng) lên đến một nửa, Văn Bân vẫy cờ, phục binh bốn phía nổi lên, quân của Võ Tiên kinh hoàng, thây xác ngổn ngang thành núi, núi nhuộm đỏ máu, giết tướng chúng là Ngột Sa Nhạ, bắt được bảy trăm ba mươi người, khải giáp vứt bỏ như núi. Xập tối, Củng tiến quân đến sông Tiểu Thủy, Lưu Nghi quay về, đều nói Tiên không muốn hàng, mưu đi về Thương Châu cự hiểm phòng thủ, nhưng già trẻ không muốn quay về Bắc, Củng nói: "Tiến quân không thể trì hoãn." Giữa đêm mười khắc, gọi Văn Bân đến nhận sách lược, ngày hôm sau công Thạch Huyệt chín trại. Bình thần, điểm tâm từ rất sớm để đi, sáng sớm đến Thạch Huyệt, bấy giờ trời mưa không dứt, Văn Bân lo việc ấy, Củng nói: "Đêm tuyết này là thời cơ bắt sống Ngô Nguyên Tế." Phân  binh tiến công, lại để Văn Bân đến tiếp ứng. Từ giờ dần (từ 3 đến 5 giờ sáng) đến giờ tị (từ chín giờ sáng đến mười một giờ trưa), chín trại nhất thời đều bị phá, Võ Tiên bỏ trốn, truy tới trại Niêm Ngư, Võ Tiên vọng nhìn, thay đổi quần áo rồi trốn. lại chiến ở núi Ngân Hồ Lô, quân Tiên lại bại, Võ Tiên cùng năm sáu kỵ chạy trốn, ẩn nấp không thấy, nhận hàng quân bảy mươi vạn người, lấy được giáp binh (tức áo giáp) vô kể, quay quân về Tương Dương, (Mạnh Củng) chuyển làm Tu Võ Lang, Ngạc Châu Giang Lăng Phủ Phó Đô Thống Chế.

大元兵遣宣撫王楫約共攻蔡,制置使謀於珙,珙請以二萬人行,因命珙盡護諸將。金兵二萬騎繇真陽橫山南來,珙鼓行而前,金人戰敗,卻走,追至高黃陂,斬首千二百級。倴盞遣兔花忒、沒荷過出、阿悉三人來迓,珙與射獵,割鮮而飲,馳入其帳。倴盞喜,約爲兄弟,酌馬湩飲之。金兵萬人自東門出戰,珙遮其歸路,掩入汝河,擒其偏裨八十有七人。得蔡降人,言城中饑,珙曰:「已窘矣,當盡死而守,以防突圍。」珙與倴盞約,南北軍毋相犯。決堰水,布虎落。倴盞遣萬戶張柔帥精兵五千人入城,金人鉤二卒以往,柔中流矢如蝟,珙麾先鋒救之,挾柔以出。撥發官宋榮不肅,將斬之,衆下馬羅拜以請,猶杖之。黎明,珙進逼石橋,鉤致生俘郭山,戰少卻。金人突至,珙躍馬入陣,斬山以徇,軍氣復張,殊死戰,進逼柴潭立柵,俘金人百有二,斬首三百餘級。翼日,命諸將奪柴潭樓。金人爭樓,諸軍魚貫而上。金人又飾美婦人以相蠱,麾下張禧等殺之,遂拔柴潭樓,俘其將士五百三十有七人。蔡人恃潭爲固,外即汝河,潭高於河五六丈,城上金字型大小樓伏巨弩,相傳下有龍,人不敢近,將士疑畏。珙召麾下飲,再行,曰:「柴潭非天造地設,樓伏弩能及遠而不可射近,彼所恃此水耳,決而注之,涸可立待。」皆曰:「堤堅未易鑿。」珙曰:「所謂堅者,止築兩堤首耳,鑿其兩翼可也。」潭果決,實以薪葦,遂濟師攻城,擒其兩將斬之,獲其殿前右副點檢溫端,磔之城下,進逼土門。金人驅其老稚熬爲油,號「人油砲」,人不堪其楚,珙遣道士說止之。
Đại Nguyên (tức nhà Nguyên) sai Tuyên Phủ Vương Tiếp hẹn cùng (Tống) công Thái Châu, Chế Tri Sứ (Triệu Phương) hỏi kế Củng, Củng xin lấy hai vạn người đi, nên mệnh Củng hộ vệ hết chư tướng. Quân Kim hai vạn kỵ từ Chân Dương Hằng Sơn nam hạ, Củng đánh trống hành quân tiến lên phía trước, người Kim chiến bại, thoái lui, truy đến Cao Hoàng Bi (chữ 陂 là triền núi), chém một nghìn hai trăm thủ cấp. (Na Nhan) Bôn Trản Thố Hoa Thắc, Một Hà Quá Xuất, A Tất ba người đến đón, Củng cùng họ đi săn bắn, cắt thịt tươi uống rượu, cưỡi ngựa vào lều họ. Bôn Trản thích (Củng), kết làm huynh đệ, rót sữa ngựa cho (Củng) uống. Quân Kim vạn người từ cửa Đông xuất chiến, Củng chẹn đường lui của chúng, đánh úp vào Nhữ Hà, bắt được tì tướng của chúng tám bảy người. Thu nạp được người Thái Châu đầu hàng, nói trong thành đói, Củng nói: "(Trong thành) đã quẫn bách, sẽ phòng thủ tới chết, để phòng phá vây." Củng cùng Bôn Trản quy ước quân Nam và Bắc không xâm phạm lẫn nhau, tháo đê cho nước chảy, bày hàng rào chướng ngại. Bôn Trản sai Vạn Hộ Trương Nhu chỉ huy tinh binh năm nghìn vào thành, người Kim dùng câu liêm kéo hai tên lính đi, Nhu trúng tên như nhím, Củng chỉ huy tiên phong cứu Nhu, kẹp lấy Nhu thoát ra. Bát Phát Quan Tống Vinh bất kính, (Củng) sắp chém hắn, quân chúng xuống ngựa lạy xin tha, vẫn lấy gậy đánh y. Trời gần sáng, Củng tiến bức Thạch Kiều, Củng lấy câu liêm bắt sống Quách Sơn, giao chiến hơi lui, người Kim đột nhiên đến, Củng nhảy lên ngựa nhập trận, chém Sơn thị uy, sĩ khí lại lên, quyết chết đánh, tiến bức Sài Đàm (nay tỉnh Hà Nam, phía nam huyện Nhữ Nam ba lý) lập hàng rào, bắt được người Kim hai trăm người, chém hơn ba trăm thủ cấp. Ngày hôm sau, lệnh chư tướng đoạt Sài Đàm Lầu, người Kim tranh tòa lầu, chư quân tuần tự mà lên, người Kim lại trang điểm cho mỹ nhân làm mê hoặc nhau. Bộ hạ là bọn Trương Hi giết chúng, rồi đánh hạ Sài Đàm Lầu, bắt được tướng sĩ chúng năm trăm ba mươi bảy người. Người Thái cậy có đầm lầy làm chắc chắn, phía ngoài gần sông Nhữ Hà, cao hơn sông năm sáu trượng, trên thành có lầu lớn nhỏ hình chữ kim trong giấu nỏ lớn, tương truyền phía dưới có rồng, người không dám lại gần, tướng sĩ nghi hoặc sợ hãi. Củng gọi bộ hạ đến uống rượu, uống lần hai thì nói: "Sài Đàm không phải thiên tạo địa thiết (nghĩa là được thiên nhiên tôn tạo), trên lầu giấu nỏ chỉ bắn được xa không bắn được gần, chúng chỉ cậy vào sông này mà thôi, làm vỡ đê trút hết nước, thì nước sẽ cạn ngay." (Bộ hạ) đều nói: "Đê kiên cố không dễ đục." Củng nói: "Những chỗ gọi là kiên cố, chỉ là đắp ở hai đầu thôi, đục hai bên sẽ được." Đê quả nhiên vỡ, lấy cỏ đắp vào, nên quân vượt qua công thành, bắt hai tướng của chúng đem chém, bắt được Điện Tiền Hữu Phó Điểm Kiểm Ôn Đoan, xé xác hắn dưới thành, tiến bức thổ môn, người Kim xua người già trẻ nhỏ nấu thành dầu, gọi là "nhân dầu pháo", người không chịu nổi nổi đau đớn như thế, Củng phái đạo sĩ khuyên ngừng việc ấy.

端平元年正月辛丑,黑氣壓城上,日無光,降者言:「城中絕糧已三月,鞍靴敗鼓皆糜煮,且聽以老弱互食,諸軍日以人畜骨和芹泥食之,又往往斬敗軍全隊,拘其肉以食,故欲降者衆。」珙下令諸軍銜枚,分運雲梯布城下。己酉,珙帥師向南門,至金字樓,列雲梯,令諸將聞鼓則進,馬義先登。趙榮繼之,萬衆競登,大戰城上,降其丞相烏古論栲栳,殺其元帥兀林達及偏裨二百人。門西開,招倴盞入,江海執其參政張天綱以歸。珙問守緒所在,天綱曰:「城危時即取寶玉置小室,環以草,號泣自經,曰:『死便火我』,煙焰未絕。」珙與倴盞分守緒骨,得金諡寶、玉帶、金銀印牌有差。還軍襄陽,特授武功郎、主管侍衛馬軍行司公事。擢建康府都統制兼權侍衛馬軍行司職事。

Năm đầu Đoan Bình, tháng giêng, tân sửu (1 tháng 2 năm 1234), hơi đen đè lên thành, mặt trời không có nắng sáng (do hơi đen che), những kẻ đầu hàng nói: "Trong thành tuyệt lương đã ba tháng, yên ngựa giầy ủng đều lấy nấu để ăn, lại nghe nói người già yếu ăn lẫn nhau, chư quân ngày ngày lấy xương người và thú trộn với rau cần và bùn ăn, lại thường thường chém toàn đội bại quân, lọc thịt để ăn, cho nên người muốn hàng nhiều lắm." Củng hạ lệnh cho chư quân ngậm hàm thiếc (để không gây tiếng động), chia nhau bắc thang lên thành. Kỉ dậu, Củng soái quân sang cổng nam, đền Kim Tự Lầu, bắc thang, lệnh chư tướng nghe trống thì tiến, Mã Nghĩa lên trước. Triệu Vinh theo sau, vạn người đua nhau lên, đại chiến trên thành, Thừa Tướng Ô Cổ Luận Khảo Lão đầu hàng, giết được Nguyên Soái Ngột Lâm Đạt cùng tỳ tướng hai trăm người. Cửa tây mở, đón Bôn Trản, Giang Hải bắt Tham Chính Trương Thiên Cương đem về. Củng hỏi (Hoàn Nhan) Thủ Tự (tức Kim Ai Tông) ở đâu, Thiên Cương nói: "Lúc trong thành nguy thì lấy ngọc bảo bỏ vào căn phòng nhỏ, xung quanh bỏ cỏ, khóc lớn tự thắt cổ, nói: "Ta chết rồi thiêu xác ta", khói lửa không dứt." Củng cùng Bôn Trản chia nhau hài cốt của Thủ Tự, lấy được thụy bảo (ngọc ấn có khắc tên thụy của bậc đế vương), đai ngọc (đai đeo lưng bằng ngọc), vàng bạc ấn bài các thứ. Đem quân về Tương Dương, đặc cách trao chức Võ Công Lang, Chủ Quản Thị Vệ Mã Quân Hành Ti Công Sự, được đề bạt làm Kiến Khang Phủ Đô Thống Chế kiêm chức Quyền Thị Vệ Mã Quân Hành Ti Chức Sự.

太常寺簿朱楊祖、看班祗候林拓朝八陵,諜云大元兵傳宋來爭河南府,哨已及盟津,陝府、潼關、河南皆增屯設伏,又聞淮閫刻日進師,衆畏不前。珙曰:「淮東之師,由淮、泗溯汴,非旬餘不達,吾選精騎疾馳,不十日可竣事;逮師至東京,吾已歸矣。」於是晝夜兼行,與二使至陵下,奉宣御表,成禮而歸。制置司奏留珙襄陽兼鎮北軍都統制。鎮北軍者,珙所招中原精銳百戰之士萬五千餘人,分屯漅北、樊城、新野、唐、鄧間。俄令赴樞密院稟議,授帶御器械。二年,授主管侍衛馬軍司公事,時暫黃州駐劄,朝辭,上曰:「卿名將之子,忠勤體國,破蔡滅金,功績昭著。」珙對曰:「此宗社威靈,陛下聖德,與三軍將士之勞,臣何力之有?」帝問恢復,對曰:「願陛下寬民力,蓄人材,以俟機會。」帝問和議,對曰:「臣介胄之士,當言戰,不當言和。」賜齎甚厚。兼知光州,又兼知黃州。

Thái Thường Tự Bộ Chu Dương Tổ, Khán Ban Chi Hầu Lâm Thác bái lạy bát lăng (lăng vua Tống), điệp báo nói quân Nguyên truyền rằng Tống đến tranh Hà Nam Phủ, tiền tiêu đã đến Minh Tân, Thiểm Phủ, Đồng Quan, Hà Nam đều tăng binh đặt mai phục, lại nghe nói tướng ở Hoài ước hẹn ngày tiến quân, sĩ tốt sinh sợ không tiến. Củng nói "Quân ở Hoài Đông, từ Hoài, Tứ ngược dòng đến Biện (tức Biện Kinh, Khai Phong, thủ đô cũ nhà Bắc Tống), nếu không đi trong một tuần (tức 10 ngày) thì không đến, ta chọn tinh kỵ đi nhanh tới, không đầy mười ngày thì xong việc, kịp khi quân đến Đông Kinh thì ta đã quay về rồi." Cho nên ngày đêm đi gấp, cùng hai sứ giả đến dưới lăng, tuyên cáo ngự biểu (tức thánh chỉ do vua soạn), làm lễ rồi về. Chế Tri Tư tấu lưu Củng lại ở Tương Dương, kiêm chức Trấn Bắc Quân Đô Thống Chế. Trấn Bắc quân do Củng chiêu mộ ở Trung Nguyên là quân sĩ tinh nhuệ trải qua trăm chiến gồm hơn một vạn năm nghìn người, phân đồn ở giữa Sào Bắc, Phàn Thành, Tân Dã, Đường Châu, Đặng Châu. Không lâu sau lệnh (Củng) đến Khu Mật Viện tấu nghị, phong làm Đái Ngự Khí Giới. Năm thứ hai (1235), phong làm Chủ Quản Thị Vệ mã Quân Tư Công Sự, bấy giờ đóng quân tạm ở Hoàng Châu, (Củng) lên triều từ biệt hoàng thượng, hoàng thượng nói: "Khanh là con của danh tướng, trung thành cần mẫn lo việc nước, phá Thái (tức vây phá thành Thái Châu) diệt Kim, công tích hiển nhiên." Củng đáp rằng: "Đây là uy linh của tông miếu xã tắc, thánh đức của bệ hạ, cùng công lao của ba quân tướng sĩ, thần có năng lực gì cho cam?" Hoàng đế hỏi việc khôi phục (đất cũ), Củng đáp: "Mong bệ hạ khoan thứ sức dân, tích góp hiền tài, để đợi thời cơ." Hoàng đế lại hỏi chuyện hòa nghị, Củng đáp: "Thần là võ tướng, nên nói chuyện đánh, không nên nói chuyện hòa." (Hoàng đế) ban tặng phong hậu. (Củng) kiêm chức Quang Châu Tri Châu, lại kiêm chức Quảng Châu Tri Châu.

三年,珙至黃,增埤浚隍,搜訪軍實,邊民來歸者日以千數,爲屋三萬間居之,厚加賑貸。又慮兵民雜處,因高阜爲齊安、鎮淮二砦,以居諸軍。創章家山、毋家山兩堡爲先鋒、虎翼、飛虎營。兼主管管內安撫司公事,節制黃、蘄、光、信陽四郡軍馬。

Năm thứ ba (9 tháng 2 năm 1236 đến 27 tháng 1 năm 1237), Củng đến Hoàng Châu, xây cao tường thành đào sâu hào lũy, tìm gom quân tư, biên dân đến quy hàng mỗi ngày vài nghìn, làm ba vạn gian nhà để dân ở, cứu tế rất nhiều. (Củng) lại sợ quân dân ở lẫn lộn với nhau, nên ở chỗ cao lập hai trại Tề An và Trấn Hoài để chư quân ở. Xây hai đồn lũy Chương Gia Sơn và Vô Gia Sơn làm tiên phong, hổ dực, phi hổ doanh. (Củng) kiêm chức Chủ Quản Quản Nội An Phủ Tư Công Sự, tiết chế Quảng Châu, Kì Châu, Quang Châu, Tính Dương bốn Đô quân mã.

大元兵攻蘄州,珙遣兵解其圍;又攻襄陽,隨守張龜壽、荊門守朱楊祖、郢守喬士安皆委郡去,復州施子仁死之,江陵危急。詔沿江、淮西遣援,衆謂無逾珙者,乃先遣張順渡江,珙以全師繼之。大元兵分兩路:一攻復州,一在枝江監利縣編筏窺江。珙變易旌旗服色,迴圈往來,夜則列炬照江,數十里相接。又遣外弟趙武等共戰,躬往節度,破砦二十有四,還民二萬。嘉熙元年,封隨縣男,擢高州刺史,忠州團練使兼知江陵府、京西湖北安撫副使。未幾,授鄂州諸軍都統制。

Quân Đại Nguyên (tức Mông-Nguyên) tấn công Kì Châu, Củng sai quân phá vòng vây, lại công Tương Dương, Tùy Châu Thủ Thần Trương Quy Thọ, Kinh Môn Thủ Thần Chương Dương Tổ, Dĩnh Châu Thủ Thần Kiều Sĩ An đều bỏ Đô mà chạy, Phục Châu Thi Tử Nhân tử chiến, Giang Lăng nguy cấp.  Chiếu lệnh ven Giang và Hoài Tây phái binh ứng cứu, quân chúng nói không ai qua được Củng, bèn trước tiên sai Trương Thuận vượt sông, Củng lấy toàn quân đi theo. Quân Đại Nguyên phân hai đường, một công Phục Châu, một ở Chi Giang, huyện Giám Lợi kết bè vượt sông Trường Giang. Củng cho đổi màu sắc cờ tiết và y phục, đi lại tới lui, đêm thì đốt đuốc chiếu sông, liền tiếp vài mươi lí. Lại sai người em họ là bọn Triệu Võ cùng chiến, tự mình đi lại tiết chế, phá hai mươi bốn trại (địch), đem về hai vạn dân. Năm đầu Gia Hi (1237), phong làm Tùy Huyện Nam, được đề bạt làm Cao Châu Thứ Sử, Trung Châu Đoàn Luyệt Sứ kiêm Giang Lăng Phủ Trị Châu, Kinh Tây Hồ Bắc An Phủ Phó Sứ. Không lâu sau, phong làm Ngạc Châu Chư Quân Đô Thống Chế.

大元大將忒沒䚟入漢陽境,大將口溫不花入淮甸,蘄守張可大、舒州李士達委郡去,光守董堯臣以州降。合三郡人馬糧械攻黃守王鑒,江帥萬文勝戰不利。珙入城,軍民喜曰:「吾父來矣。」駐帳城樓,指畫戰守,卒全其城,斬逗留者四十有九人以徇。御筆以戰功賞將士,特賜珙金碗,珙益以白金五十兩賜之諸將。將士彌月苦戰,病傷者相屬,珙遣醫視療,士皆感泣。

Đại Tướng Đại Nguyên là Thắc Một Đài (Temudai) tiến vào vùng Hán Dương, Đại Tướng Khẩu Ôn Bất Hoa (Kumun Buqa) tiến vào Hoài Điện, Kì Châu Thủ Thần Trương Khả Đại, Thư Châu Lý Sĩ Đạt bỏ quận mà chạy, Quang Châu Thủ Thần Đổng Nghiêu Thần lấy châu của mình hàng. Hợp ba quận nhân mã lương thực khí giới công Hoàng Châu Thủ Thần Vương Giám, Giang Châu Tổng Sư Vạn Văn Thắng, đánh bất lợi. Củng vào thành, quân dân mừng nói: "Cha chúng ta đến rồi." Đặt doanh trướng trên thành lầu, chỉ huy chiến đầu phòng thủ, rốt cục bảo toàn thành ấy (tức Hoàng Châu), chém những kẻ chần chừ bốn mươi chín người để thị uy. Hoàng đế ngự bút vì chiến công thưởng quân sĩ, đặc cách tặng Củng chén vàng, Củng lấy thêm bạch kim năm mươi lượng tặng chư tướng. Tướng sĩ cả tháng khổ chiến, người bệnh và bị thương liên tiếp không thôi, Củng sai thầy thuốc trông coi chữa trị, quân sĩ đều cảm động đến rơi lệ.

二年春,授寧遠軍承宣使、帶御器械、鄂州江陵府諸軍都統制。珙以三軍賞典未頒,表辭。詔曰:「有功不賞,人謂朕何?三軍勳勞,趣其來上。封爵之序,自將帥始,卿奚辭焉?」未幾,授樞密副都承旨、京西湖北路安撫制置副使兼督視行府參謀官。未幾,升制置使兼知岳州。乃檄江陵節制司搗襄、郢,於是張俊復郢州,賀順復荊門軍。十二月壬子,劉全戰於塚頭,戰於樊城,戰於郎神山,屢以捷聞。三年春正月,曹文鏞復信陽軍,劉全復樊城,遂復襄陽。授樞密都承旨、制置使兼知鄂州。全遣譚深復光化軍,息、蔡降,珙命以兵逆之,得壯士百餘,籍爲忠衛軍。

Năm thứ hai (1238), xuân, trao chức Ninh Viễn Quân Thừa Tuyên Sứ, Đái Ngự Khí Giới, Ngạc Châu Giang Lăng Chư Quân Đô Thống Chế. Củng vì triều đình chưa ban bố khen thưởng cho ba quân, nên dâng biểu từ tạ. Chiếu nói: "Có công không thường, người ta nói trẫm như thế nào, công lao của ba quân, mau dâng nói chung dâng biểu. Thứ tự khi phong tướng, bắt đầu từ tướng lĩnh, khanh sao lại chối từ?" Không lâu sau, trao chức Khu Mật Phó Đô Thừa Chỉ, Kinh Tây Hồ Bắc Lộ An Phủ Chế Trí Phó Sứ kiêm Đốc Thị Hành Phủ Tham Mưu Quan. Không lâu sau, thăng làm Chế Trí Sứ kiêm Tri Nhạc Châu. Bèn truyền hịch cho Giang Lăng Tiết Chế Tư quấy rối các nơi Tương, Dĩnh, do vậy Trương Tuấn (1) khôi phục Dĩnh Châu, Hạ Thuận khôi phục Kinh Môn Quân. Tháng mười hai, nhâm tử, Lưu Toàn chiến ở Trủng Đầu, chiến ở Phàn Thành, chiến ở Lang Thần Sơn, nhiều lần báo tin thắng trận. Năm thứ ba (1239), xuân, tháng giêng, Tào Văn khôi phục Tín Dương Quân, Lưu Toàn khôi phục Phàn Thành, lại khôi phục Tương Dương. Phong Khu Mật Viện Đô Thừa Chỉ, Chế Trí Sứ kiêm Tri Ngạc Châu. Toàn cử Đoàn Thâm khôi phục Quang Hoa Quân, Tức Châu và Thai Châu hàng, Củng lệnh lấy quân đón tiếp, thu được hơn trăm tráng sĩ, biên vào sổ tịch làm Trung Vệ Quân (tức biên tên các trang sĩ vào sổ quân, lập ra đạo quân tên Trung Vệ Quân).

(1) Người đọc không nên nhầm tên tướng Trương Tuấn này với danh tướng Trương Tuấn (1086-1154), người sống vào đời vua Tống Cao Tông, là một trong "nam độ tứ tướng" và là người đương thời với danh tướng Nhạc Phi. 

初,詔珙收復京、襄,珙謂得郢然後可以通饋餉,得荊門然後可以出奇兵,由是指授方略,發兵深入,所至以捷聞。珙奏略曰:「取襄不難而守爲難,非將士不勇也,非車馬器械不精也,實在乎事力之不給爾。襄、樊爲朝廷根本,今百戰而得之,當加經理,如護元氣,非甲兵十萬,不足分守。與其抽兵於敵來之後,孰若保此全勝?上兵伐謀,此不爭之爭也。」乃置先鋒軍,以襄、郢歸順人隸焉。

Trước đó, lệnh Củng thu phục Kinh, Tương, Củng nói lấy được Dĩnh Châu thì sau mới có thể thông đường lương hướng, lấy được Kinh Môn thì sau mới xuất quân đánh bất ngờ được, từ đó (Củng) chỉ đạo phương lược, phát binh vào sâu, chỗ nào đến cũng báo tin thắng trận. Củng dâng tấu đại lược nói: "Lấy được Tương không khó mà thủ khó, không phải là tướng sĩ không dũng cảm, không phải xa mã khí giới không tốt, mà thực vì lực lượng không đủ dùng. Tương Dương, Phàn Thành là căn bổn của triều đình, nay trải qua trăm trận mới có được, nên gia tăng việc kinh lí, nếu như muốn bảo vệ nguyên khí, không có giáp binh mười vạn, không đủ chia ra phòng thủ. so với việc điều binh sau khi địch đến, sao bằng bảo vệ cái thế toàn thắng này? Dụng binh cốt ở mưu lược, đây chính là tranh mà không tranh." Bèn đặt quân tiên phong, lấy người quy thuận từ Tương, Dĩnh quy thuộc về đấy.

Lời bình: Qua bài sớ của Mạnh Củng, thấy rõ tầm quan trọng của hai thành Tương Dương-Phàn Thành. Tương Dương-Phàn Thành còn, nhà Tống còn, Tương Dương-Phàn Thành mất, nhà Tống vong. Về sau, khi Nguyên Thế Tổ phát động chiến tranh lần nữa xâm lược Nam Tống, nhà Tống không thể kịp thời chi viện cho Tương Dương-Phàn Thành, đến nỗi Lã Văn Hoán (吕文焕) dâng thành đầu hàng nhà Nguyên năm 1273, khiến cho đại cục nhà Nam Tống rơi vào thế tuyệt vọng, đó là sự thất bại lớn của nhà Tống vậy.

庚寅,諜報大元兵欲大舉臨江,珙策必道施、黔以透湖湘,請粟十萬石以給軍餉,以二千人屯峽州,千人屯歸州。忠衛舊將晉德自光化來歸,珙獎用之。珙弟瑛以精兵五千駐松滋爲夔聲援,遣于德興增兵守歸州隘口萬戶谷。大元兵自隨窺江,珙密遣劉全拒敵,遣伍思智以千人屯施州。大元大將塔海並禿雪帥師入蜀,號八十萬,珙增置營砦,分佈戰艦,遣張舉提兵間道抵均州防遏。大元兵度萬州湖灘,施、夔震動,珙兄璟時爲湖北安撫副使、知峽州,急以書謀備禦。珙請于督府,帥師西上。璟調金鐸一軍迎拒於歸州大𤦩砦。劉義捷于巴東縣之清平村。珙弟璋選精兵二千駐澧州防施、黔路。四年,進封子。

Canh dần, điệp báo nói quân Đại Nguyên muốn dấy quân lớn tiến bức Trường Giang, Củng tính kế tất phải đi đường Thi, Kiềm để qua Hồ Tương, bèn xin thóc mười vạn thạch để cung ứng quân lương, lấy hai nghìn người đồn ở Hạp Châu, nghìn người đồn ở Quy Châu. Tướng cũ là Trung Vệ Tấn Đức từ Quang Hóa đến hàng, Củng thưởng và dùng hắn. Em Củng là (Mạnh) Anh lấy tinh binh năm nghìn lưu lại ở Tùng Tư làm cứu viện cho Quỳ Châu, sai  Vu Đức Hưng tăng binh thủ Quy Châu cửa ải Vạn Hộ Cốc. Quân Đại Nguyên từ Tùy Châu nhắm tiến qua sông Trường Giang, Củng bí mật sai Lưu Toàn cự địch, sai Ngũ Tư Tri lấy nghìn người đồn trú ở Thi Châu. Đại tướng quân Đại Nguyên là Tháp Hải (Taqai) cùng quân của Ngốc Tuyết lĩnh quân tiến vào đất Thục (Tứ Xuyên), nói phao lên là tám mươi vạn, Củng tăng cường đặt doanh trại, phân bố chiến thuyền, sai Trương Cử đề binh theo đường nhỏ đến Quân Châu phòng vệ ngăn cản địch. Quân Đại Nguyên vượt Vạn Châu Hồ Than. Thi, Quỳ chân động, anh Củng là (Mạnh) Cảnh bấy giờ làm Hồ Bắc An Phủ Sứ, Tri Châu Hạp Châu, gấp rút xin kế sách phòng bị. Củng xin với Đốc Phủ, lĩnh quân lên phía Tây. Cảnh điều Kim Trạch lĩnh một quân ứng chiến kháng cự ở Quy Châu trại Đại A. Lưu Nghĩa đánh thắng ở thôn Tĩnh Bình thuộc huyện Ba Đông. Em Củng là (Mạnh) Chương tuyển tinh binh hai nghìn đóng ở Lễ Châu phòng ngự lộ Thi và Kiềm. Năm thứ tư (1240), phong tước tử.

珙條上流備禦宜爲藩籬三層:乞創制副司及移關外都統一軍于夔,任涪南以下江面之責,爲第一層;備鼎、澧爲第二層;備辰、沅、靖、桂爲第三層。峽州、松滋須各屯萬人,舟師隸焉,歸州屯三千人,鼎、澧、辰、沅、靖各五千人,郴、桂各千人,如是則江西可保。又遣楊鼎、張謙往辰、沅、靖三州,同守倅曉諭熟蠻,講求思、播、施、黔支徑,以圖來上。

Củng điều trần rằng thượng lưu (sông Trường Giang) phòng bị nên có ba tầng chướng ngại, xin đặt Chế Phó Tư và dời một quân của Quan Ngoại Đô Thống đến Quỳ Châu, đảm đương trọng trách từ phía nam Bồi Châu trở xuống sông (Trường) Giang, là một tầng. Phòng bị Đỉnh Châu và Lễ Châu là hai tầng, phòng bị Thìn Châu, Nguyên Châu, Tĩnh Châu, Quê Châu, là ba tầng. Hạp Châu và Tùng Tư mỗi nơi phải đồn vạn người, chu sư (quân thủy) đặt ở đấy. Quy Châu đồn ba nghìn. Đỉnh, Lễ, Thìn, Nguyên, Tỉnh mỗi nơi đồn năm nghìn người. Sâm, Quế mỗi nơi nghìn người. Như thế thì Giang Tây có thể bảo toàn được. Lại sai Dương Đỉnh, Trương Khiêm đến Thìn, Nguyên, Tỉnh ba Châu, cùng Thủ Thối (tên một chức quan) chỉ bảo rõ ràng và làm quen, thương nghị lấy Tư Châu, Bá Châu, Thi Châu, Kiềm Châu phân thành đường nhỏ, lấy bản đồ dâng lên.

會諜知大元兵於襄、樊、隨、信陽招集軍民布種,積船材于鄧之順陽,乃遣張漢英出隨,任義出信陽,焦進出襄,分路撓其勢。遣王堅潛兵燒所積船材,又度師必因糧于蔡,遣張德、劉整分兵入蔡,火其積聚。制拜寧武軍節度使、四川宣撫使兼知夔州。招集麻城縣、巴河、安樂磯、管公店淮民三百五十有九人,皆沿邊經戰之士,號「寧武軍」,令璋領之。進封漢東郡侯兼京湖安撫制置使。

Kịp lúc điệp báo quân Đại Nguyên ở Tương Dương, Phàn Thành, Tùy Châu, Tín Dương chiêu tập quân dân gieo hạt (tức trồng trọt lấy lương cung ứng cho quân đội), gom góp gỗ để đóng thuyền ở huyện Đặng của Thuận Dương, bèn sai Trương Hán Anh xuất phát ở Tùy Châu, Nhâm Nghĩa xuất phát ở Tín Dương, Tiêu Tiến xuất phát ở Tương Dương chia đường quấy phá thế chúng. Sai Vương Kiên bí mất dẫn quân đốt cháy gỗ đóng thuyền, lại mưu tính quân địch ắt phải cậy vào lương ở Thái Châu, sai Trương Đức, Lưu Chỉnh phân binh vào Thái Châu, đốt lương thảo tích lũy của chúng. (Hoàng đế) viết chiếu phong chức Ninh Võ Quân Tiết Độ Sứ, Tứ Xuyên Tuyên Phủ Sứ kiêm Quỳ Châu Tri Châu. (Củng) chiêu tập huyện Ma Thành, Ba Hà, An Lạc Ki, Quản Công Điếm, Hoài dân ba trăm năm mươi chín người, đều là chiến sĩ ven biên thùy trải qua chinh chiến, gọi "Vũ Ninh Quân", lệnh (Mạnh) Chương (tức em Mạnh Củng, như đã nói ở trên) lĩnh chúng. Tiến phong (Củng) làm Hán Đông Quận Hầu kiêm Kinh Hồ An Phủ Chế Trí Sứ.

回鶻愛里八都魯帥壯士百餘、老稚百一十五人、馬二百六十匹來降,創「飛鶻軍」,改愛里名艾忠孝,充總轄,乞補以官。四川制置使陳隆之與副使彭大雅不協,交章於朝。珙曰:「國事如此,合智並謀,猶懼弗克,而兩司方勇於私鬥,豈不愧廉、藺之風乎。」馳書責之,隆之、大雅得書大慚。

Ái Lí Bát Đô Lỗ người Hồi Hột (tức người Uyghur) lĩnh tráng sĩ trăm người, già trẻ một trăm mười lăm người, ngựa hai trăm sáu mươi con đến hàng, (Củng) lập "Phi Hột Quân", đổi tên Ái Lí thành Ngải Trung Hiếu, cho làm chức Tổng Hạt, xin bổ nhiệm làm quan. Tứ Xuyên Chế Trí Sứ Trần Long Chi cùng Phó Sứ Bành Đại Nhã không hợp nhau, viết thư giao cho triều đình. Củng nói: "Quốc sự đã thế, hợp trí tịnh mưu (cùng nhau hợp mưu trí), còn sợ không thắng, vậy mà hai vị quan nhân bạo gan đấu đá nhau, há không thẹn với phong cách của Liêm Pha, Lạn Tương Như sao." (Củng) gửi thư trách họ, Long Chi và Đại Nhã nhận được thư rất lấy làm hổ thẹn.

釐蜀政之弊,爲條班諸郡縣,曰差除計屬、曰功賞不明、曰減克軍糧、曰官吏貪黷、曰上下欺罔。又曰:「不擇險要立砦柵,則難責兵以衛民;不集流離安耕種,則難責民以養兵。」乃立賞罰以課殿最,俾諸司奉行之。黎守閻師古言大理國請道黎、雅入貢,珙報大理自通邕、廣,不宜取道川蜀,卻之。兼夔路制置大使兼屯田大使。軍無宿儲,珙大興屯田,調夫築堰,募農給種,首秭歸,尾漢口,爲屯二十,爲莊百七十,爲頃十八萬八千二百八十,上屯田始末與所減券食之數,降詔獎諭。靖州徭琳賽良爲亂,遣王瑀平之。

(Củng) sửa đổi tệ đoan trong nội chính đất Thục (tức Tứ Xuyên), làm các điều khoản ban bố cho quận huyện, gồm quan lại nhậm chức phải ghi lại, gồm thưởng công không rõ ràng, gồm có ăn xén quân lương, gồm có quan lại tham lam, trên dưới gièm pha lẫn nhau. Lại nói: "Không chọn chỗ hiểm yếu lập trại sách ("sách" là hàng rao xung quanh trại), thì khó đòi quân đội bảo vệ dân chúng, không chiêu tập dân lưu vong để yên việc cày cấy, thì khó mong dân nuôi quân đội." Bèn lập chế độ thưởng phạt để khảo hạch quan lại trên dưới, khiến các Ti thực hiện việc ấy. Lê Châu Thủ Thần Diêm Sư Cổ nói nước Đại Lý xin giả đạo Lê Châu và Nha Châu tiến cống, Củng viết thư trả lời rằng Đại Lý vốn thông với Ung Châu và Quảng Châu, không nên lấy đường Xuyên Thục (tức Tứ Xuyên), nên từ chối việc ấy. (Củng) kiêm chức Quỳ Lộ Chế Trí Đại Sứ kiêm Đồn Điền Đại Sứ. Quân đội không tích trữ lương thực, Củng hứng khởi lập đồn điền, điều dân phu xây đê, mộ nông dân cho hạt giống, phía đầu bắt đầu từ Khởi Quy, phía đuôi kết thúc ở Hán Khẩu, gồm mười hai đồn, đặt một trăm bảy mươi trang, làm mười tam vạn tám nghìn hai trăm tám mươi khoảnh ruộng cày cấy, dâng sớ kể quá trình đồn điền và việc giảm bớt số lương thực khoán, (hoàng thượng) xuống chiếu khen thưởng. Tĩnh Châu Dao Lâm Tái Lương làm loạn, (Củng) sai Vương Vũ bình định hắn. 

淳祐二年,珙以京、襄死節死事之臣請於朝,建祠岳陽,歲時致祭,有旨賜名「閔忠廟」。淮東受兵,樞密俾珙應援,遣李得帥精兵四千赴之,珙子之經監軍。諜知京兆府也可那延以騎兵三千經商州取鶻嶺關,出房州竹山,遣王令屯江陵,尋進屯郢州,劉全屯沙市,焦進提千人自江陵、荊門出襄。檄劉全齎十日糧,取道南漳入襄,與諸軍合。

Năm Thuần Hựu thứ hai (2 tháng 2 năm 1242 đến 21 tháng 1 năm 1243), Củng vì việc các cận thần tử tiết hi sinh vì việc nước mà xin với triều đình cho xây miếu ở Nhạc Dương, năm nào cũng cúng tế, có thánh chỉ tặng tên "Mẫn Trung Miếu. Giang Đông có việc quân, Khu Mật (Viện) khiến Củng ứng cứu, sai Lí Đắc lĩnh tinh binh bốn nghìn tới nơi ấy, con của Củng là (Mạnh) Chi Kinh làm giám quân. Điệp báo nói Kinh Dã Khả Na Diên ở Kinh Triệu Phủ lấy kỵ binh ba nghìn vượt qua Thương Châu đánh lấy Cốt Lĩnh Quan, từ Phòng Châu Trúc sơn đi ra, (Củng) sai Vương Lệnh đồn ở Giang Lăng, không lâu sau tiến đến đồn quân ở Dĩnh Châu, Lưu Toàn đồn ở Sa Thị, Tiêu Tiến đề binh nghìn người từ Giang Lăng, Kinh Môn ra Tương (Dương). Lệnh Lí Toàn mang mười ngày lương, lấy đường Nam Chương vào Tương (Dương), cùng chư quân hội.

大元兵至三川,珙下令應出戍主兵官,不許失棄寸土。權開州梁棟乏糧,請還司,珙曰:「是棄城也。」棟至夔州,使高達斬其首以徇。由是諸將稟令惟謹。大元兵至瀘,珙命重慶分司發兵應援,遣張祥屯涪州。拜檢校少保,進封漢東郡公。珙言:「沅之險不如辰,靖之險不如沅,三州皆當措置而靖尤急。今三州粒米寸兵無所從出,出京湖之憂一。江防上自秭歸,下至壽昌,亙二千里,自公安至峽州灘磧凡十餘處,隆冬水涸,節節當防,兵諱備多,此京湖之憂二。今尺籍數虧,既守灘磧,又守關隘,此京湖之憂三。陸抗有言:『荊州國之藩表,如其有虞,非但失一郡,當傾國爭之。若非增兵八萬並力備禦,雖韓、白復生,無所展巧。』今日事勢大略相似,利害至重。」余玠宣諭四川,道過珙,珙以重慶積粟少,餉屯田米十萬石,遣晉德帥師六千援蜀,之經爲策應司都統制。四年,兼知江陵府。珙謂其佐曰:「政府未之思耳,彼若以兵綴我,上下流急,將若之何?珙往則彼搗吾虛,不往則誰實捍患。」識者是之。

Quân Đại Nguyên đến Tam Châu, Củng hạ lệnh cho các quan chủ quản quân đội phòng thủ ứng phó, không cho phép bỏ mất một tấc đất. Quan quản Khai Châu là Lương Đống thiếu lương, xin quay về Chế Trí Tư, Củng nói: "Như thế là bỏ thành." Lúc Đống đến Quỳ Châu, Củng sai Cao Đạt chém đầu hắn để thị uy. Do vậy mà chư tướng tuân mệnh hết sức cẩn trọng. Quân Đại Nguyên tới Lô Châu, Củng lệnh Trùng Khánh Phân Ti phát binh ứng cứu, sai Trương Tường đóng quân ở Phù Châu. Củng nhâm mệnh làm Kiểm Giáo Tiểu Bảo, tiến phong chức Hán Đông Quận Vương. Củng nói: "Nguyên Châu không hiểm bằng Thìn Châu, Tĩnh Châu không hiểm bằng Nguyên Châu, Tam Châu nên nghĩ cách lo liệu, trong khi Tĩnh Châu đặc biệt nguy cấp. Nay Tam Châu một hạt gạo đến một phần binh khí cũng không có để mà ứng ra, thì đấy là một mối lo thứ nhất của Kinh Hồ. Phòng tuyến sông (Trường) Giang trên từ Tỉ Quy, dưới đến Thọ Xương, dài suốt hai nghìn lí, tự Công An đến Hạp Châu bãi đá tổng cộng hơn mười chỗ, mùa đông cạn nước, chỗ nào cũng đều nên phòng bị, mà việc dụng binh kỵ ở chỗ phòng bị nhiều, đấy là mối lo thứ hai của Kinh Hồ. Nay trong sổ quân tịch (sổ ghi danh người tòng quân) thiếu hụt nhân số, trong khi ta đã phải vừa thủ bến sông, nay lại phải thủ quan ải, thì đấy là mối lo thứ ba. Lục Kháng từng nói: "Kinh Châu là yếu địa của quốc gia, nếu vùng ấy gặp hoạn, thì không chỉ mất đi một quận, ta phải dốc toàn quốc lực giành lấy nó. Nếu không tăng binh tám vạn (1) hợp lực phòng bị, thì tuy Hàn Tin và Bạch Khởi có sống dậy, cũng không thể triển khai mưu lược gì được." Sự thế ngày nay đại lược tương tự, lợi hại rất quan trọng." Dư Giới tuyên dụ Tứ Xuyên, trên đường ghé qua chỗ Củng, Củng vì Trùng Khánh tích được ít lương, đưa mười vạn thạch gạo lấy được từ đồn điền, sai Tấn Đức chỉ huy sáu nghìn quân cứu Thục, (Mạnh) Chỉ Kính (tức con Mạnh Củng) làm Sách Ứng Tư Đô Thống Chế. Năm thứ tư (1240), (Củng) kiêm Tri Giang Lăng Phủ, Củng nói với Phụ Tá: "Chính phủ chưa suy nghĩ về việc ấy, nếu chúng lấy binh áp chế ta, (Trường Giang) thượng hạ dòng chảy xiết, thì sẽ như thế nào? Củng đi thì chúng đánh vào chỗ trống không, không đi thì ai thực sự chống lại hoạn nạn đây." Người hiểu biết đều cho thế là đúng.

(1) Tam Quốc Chí, quyển 58, Lục Tốn truyện viết như sau:

「西陵、建平,國之蕃表,旣處下流,受敵二境。若敵汎舟順流,舳艫千里,星奔電邁,俄然行至,非可恃援他部以救倒縣也。此乃社稷安危之機,非徒封疆侵陵小害也。臣父遜昔在西垂陳言,以為西陵國之西門,雖云易守,亦復易失。若有不守,非但失一郡,則荊州非吳有也。如其有虞,當傾國爭之。臣往在西陵,得涉遜迹,前乞精兵三萬,而主者循常,未肯差赴。自步闡以後,益更損耗。今臣所統千里,受敵四處,外禦彊對,內懷百蠻,而上下見兵財有數萬,羸弊日乆,難以待變。臣愚以為諸王幼沖,未統國事,可且立傅相,輔導賢姿,無用兵馬,以妨要務。又黃門豎宦,開立占募,兵民怨役,逋逃入占。乞特詔簡閱,一切料出,以補疆埸受敵常處,使臣所部足滿八萬,省息衆務,信其賞罰,雖韓、白復生,無所展巧。若兵不增,此制不改,而欲克諧大事,此臣之所深慼也。若臣死之後,乞以西方為屬。願陛下思覽臣言,則臣死且不朽。」

詔京湖調兵五千戍安豐,援壽春。珙遣劉全將以往。繼有命分兵三千備齊安,珙言:「黃州與壽昌三江口隔一水耳,須兵即度,何必預遣?先一日則有一日之費,無益有損,萬一上游有警,我軍已疲,非計之得也。」不從。五年,御筆以職事修舉,轉行兩官,許令回授。珙至江陵,登城歎曰:「江陵所恃三海,不知沮洳有變爲桑田者,敵一鳴鞭,即至城外。蓋自城以東,古嶺先鋒直至三氵義,無所限隔。」乃脩復內隘十有一,別作十隘於外,有距城數十里者。沮、漳之水,舊自城西入江,因障而東之,俾繞城北入於漢,而三海遂通爲一。隨其高下,爲匱蓄泄,三百里間,渺然巨浸。土木之工百七十萬,民不知役,繪圖上之。

Chiếu Kinh Hồ điều binh năm nghìn phòng thủ An Phong, cứu Thọ Xuân. Củng sai Lưu Toàn đến những nơi ấy. Tiếp theo có lệnh phân binh ba nghìn phòng bị Tế An, Củng nói: "Hoàng Châu với Thọ Xương Tam Giang Khẩu cách nhau một con sông, cần điều binh vượt sông, hà tất phái đi trước? Đi trước một ngày là có thêm phí một ngày, không có tăng chỉ có giảm đi, vạn nhất thượng du cáo cấp, quân ta đã mỏi mệt, không phải là kế hay." Không theo. Năm thứ năm (30 tháng 1 năm 1235 đến 18 tháng 1 năm 1236), (hoàng đế) ngự bút vì (Củng) theo chức vụ xử lí sự vụ hợp lí, chuyển thăng hai cấp quan, cho phép Củng chuyển giao chức ấy cho người thân. Củng tới Giang Lăng, lên thành mà than rằng: "Nơi ma Giang Lặng cậy vào là tam hải (ba biển), không biết vùng ẩm ướt bùn lầy có thể biến thành ruộng dâu, quân địch quất ngựa một tiếng, đã đến ngoài thành rồi. Đại khái từ thành về phía Đông, Cổ Lĩnh Tiên Phong cho đến Tam Nghĩa, không có chỗ nào cản trở (địch)." Bèn cho trùng tu lại mười một ải phía trong (thành), lại làm thêm mười ải ở ngoài, co cái cách thành khoảng mười lí. Sông Thư, sông Chương, xưa tự phía Tây thành chảy ra (Trường) Giang, do bị cản nên chảy qua đông, khiến chúng chảy quanh phía bắc thành vào sông Hán, tam hải do đó thông làm một. Theo từ chỗ cao đến thấp, đào hào tích nước, (rộng) trong vòng ba trăm lí, trông giống như hồ lớn. Dùng một trăm bảy mươi vạn (một triệu bảy trăm nghìn người) sửa đất và gỗ, dân không thấy khổ vì lao dịch (1),  vẽ thành bản đồ dâng lên.

(1) Lời bình: Chỗ này ghi là dân không thấy khổ, chắc là nói quá để giữ hình ảnh tốt cho Mạnh Củng, chứ việc đào bới xây dựng sửa chửa các công trình quân sự đều phải dùng tới sức dân, là những công việc nặng nhọc, người dịch nghĩ không có chuyện dân không khổ. Nhưng phải chịu khổ vì đây là việc sinh tồn của quốc gia.

珙以身鎮江陵,而兄璟帥武昌,故事,無兄弟同處一路者,乞歸田,不允。詔以兵五千援淮,珙使張漢英帥之。樞密調兵五千赴廣西,珙移書執政曰:「大理至邕,數千里部落隔絕,今當擇人分佈數郡,使之分治生夷,險要形勢,隨宜措置,創關屯兵,積糧聚芻于何地,聲勢既張,國威自振。計不出此而聞風調遣,空費錢糧,無補於事。」不聽。大元大將大納至江陵,遣楊全伏兵荊門以戰,珙先期諜知,達於樞密,檄兩淮爲備,兩淮不知也,後果如所報。珙奏:「襄、蜀蕩析,士無所歸,蜀士聚於公安,襄士聚於郢渚。臣作公安、南陽兩書院,以沒入田廬隸之,使有所教養。」請帝題其榜賜焉。

Củng vì thân trấn Giang Lăng, mà anh (Mạnh) Cảnh trấn thủ Võ Xương, không có anh em ở cùng một lộ, nên xin về quê, không cho. Chiếu lấy quân năm nghìn cứu Hoài, Củng sai Trương Hán Anh chỉ huy chúng. Khu Mật (Viện) điều binh năm nghìn tới Quảng Tây, Củng đưa thư cho Chấp Chính (tức tể tướng) nói: "Đại Lý đến Ung Châu, khoảng nghìn lí bộ lạc cách biệt, nay nên tuyển người phân bố ở vài quận, khiến chung phân nhau cai trị sinh Di (tức người Di man rợ), dựa vào địa thế hiểm yếu, tùy nghi xử trí, xây quan ải đồn binh mã, tích trữ lương thực ở một số chỗ, thanh thế tất lớn lên, quốc uy tự vang dội. Không theo kế này mà nghe gió điều binh khiển tướng, hoang phí tiền tài lương thực, chẳng giúp ích gì cho quốc sự." (Triều đình) không nghe. Đại Tướng Đại Nguyên là Đại Nạp đến Giang Lăng, sai Dương Toàn đặt phục binh ở Kính Môn để đánh, Củng sai thám báo đi trước, báo cáo lên Khu Mật (Viện), báo cho Lưỡng Hoài để chuẩn bị, Lưỡng Hoài không biết, hậu quả như đã báo. Củng dâng tấu rằng: "Tương Dương, Thục li tán, nhân sĩ không chỗ quay về, nhân sĩ đất Thục tụ họp ở Công An, nhân sĩ đất Tương tập trung ở Dĩnh Chử, thần lập Thư Viện ở Công An, Nam Dương hai nơi, đem ruộng điền nhà cửa giao cho bọn họ, khiến chúng có nơi để giáo dưỡng." Xin hoàng đế viết biển tặng thưởng họ.

初,珙招鎮北軍駐襄陽,李虎、王旻軍亂,鎮北亦潰,乃厚招之,降者不絕。行省范用吉密通降款,以所受告爲質,珙白於朝,不從。珙歎曰:「三十年收拾中原人,今志不克伸矣。」病遂革,乞休致,授檢校少師、寧武軍節度使致仕,終於江陵府治,時九月戊午也。是月朔,大星隕於境內,聲如雷。薨之夕,大風發屋折木。訃至,帝震悼輟朝,賻銀絹各千,特贈少師,三贈至太師,封吉國公,諡「忠襄」,廟曰「威愛」。

Trước đó, Củng chiêu tập Trấn Bắc quân đồn ở Tương Dương, quân của Lí Hổ, Vương Mân làm loạn, Trấn Bắc cũng tan vỡ, bèn ưu đãi chiêu mộ chúng, kẻ quy hàng không dứt. Hảnh Tỉnh Phạm Dụng Cát bí mật thông cáo điều khoản xin hàng (tức tướng Nguyên định thông mưu hàng Tống),  lấy tờ thông cáo nhận được làm vật chứng, Củng tâu lên triều đình, không theo. Củng than rằng: "Ba mươi năm thu phục lòng người trung nguyên, nay chí nguyện không thành." Bệnh do đó thêm nặng, xin về hưu, được phong chức Kiểm Giáo Thiểu Sư, Ninh Võ Quân Tiết Độ Sứ Chí Sĩ, cuối cùng mất ở Giang Lăng Phủ Trị, bấy giờ tháng chín mậu ngọ. Tháng ấy ngày một, có ngôi sao lớn rơi xuống nơi Phủ Trị, tiếng như sấm. Đêm Củng mất, gió lớn thổi làm bay căn phòng và gẫy cây. Tin báo tang đến, hoàng đế chấn động thương tiếc, tặng tiền lo đám tang mỗi khoản nghìn lượng bạc, đặc biệt tặng chức Thiểu Sư, ba lần truy tặng Thái Sư, phong làm Cát Quốc Công, thụy là "Trung Tương", miếu là "Uy Ái".

珙忠君體國之念,可貫金石。在軍中與參佐部曲論事,言人人異,珙徐以片語折衷,衆志皆愜。謁士遊客,老校退卒,壹以恩意撫接。名位雖重,惟建鼓旗、臨將吏而色凜然,無敢涕唾者。退則焚香掃地,隱几危坐,若蕭然事外。遠貨色,絕滋味。其學邃于《易》,六十四卦各繫四句,名《警心易贊》。亦通佛學,自號「無庵居士」。

Ý nghĩ Củng trung với quân vương trị lí quốc gia có thể xuyên thấu cả kim thạch. Trong quân luận sự cùng tham tá và bộ hạ, lời nói của họ đều không giống nhau, Củng từ tốn dùng ít lời trung hòa các ý kiến, mọi người đều rất thích. (Đối với) sĩ nhân đến yết kiến, du khách, quân úy già cả cùng sĩ tốt đã giải ngủ, đều dùng ân tình an ủy đón tiếp. Danh tiếng địa vị tuy cao, nhưng chỉ đặt trống cờ, trước mặt các tướng cùng quan lại sắc mặt nghiêm nghị, không ai dám hỉ mui khạc nhổ (tức xem thường Mạnh Củng). Về hưu thì đốt nhang quét đất, dựa ghế ngồi thẳng, như cởi bỏ việc ngoài. Xa lìa tiền tài nữ sắc, đoạn tuyệt cao lương mĩ vị. Học vấn của Củng thâm sâu ở sách "Kinh Dịch", sáu mươi bốn quái đều kết lại thành bốn câu, đó là "kinh tâm dịch tán". Cũng thông phật học, tự gọi là "Vô Am Cư Sĩ". 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HISTORY OF YUAN: BIOGRAPHY OF URYANGQADAI (CHAPTER 412): A TRANSLATION AND ANNOTATION (宋史孟珙傳注譯(卷412)注譯)

  1.   兀良合台,初事太祖。時憲宗為皇孫,尚幼,以兀良合台世為功臣家,使護育之。憲宗在潛邸,遂分掌宿衞。歲(乙)〔癸〕巳,[5]領兵從定宗征女真國,破萬奴於遼東。繼從諸王拔都征欽察、兀魯思、阿〔速〕、孛烈兒諸部。[6]丙午,又從拔都討孛烈兒乃、捏迷思部,平之。己酉,定宗崩。...