Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020

HẮC THÁT SỰ LƯỢC CHÚ DỊCH (黑韃事略注译)


Giới Thiệu:

Lời cám ơn:

Trong quá trình dịch thuật văn bản này, người dịch đã có cơ hội tham khảo và trao đổi với giáo sư ngành Mông Cổ học Christopher Atwood tại đại học Pennsylvania, Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Giáo sư đã hết sức tốt bụng và rộng rãi khi quyết định chia sẻ bản dịch tiếng Anh cùng với phần giới thiệu và chú thích đồ sộ của mình cho người dịch. Người dịch xin chân thành cám ơn sự rộng rãi của giáo sư. Không có sự giúp đỡ của giáo sư, bản dịch này sẽ không thể được hoàn thành như thế này.

Acknowledgement:

While translating this text, the translator has had a chance to read and exchange comments with the professor and mongolist Christopher Atwood at the university of Pennsylvania, state of Pennsylvania, Philadelphia, United States. Professor Atwood has been very kind and generous when he decides to share his translation, along with an extensive introduction and footnotes, with the translator. The translator wishes to  deeply express his gratitude to professor Atwood. Without his help, this translation would not be as good and as completed as presented here.

Dịch văn:

1. 
黑韃之國號「大蒙古」。沙漠之地有蒙古山,韃語謂銀曰「蒙古」。女真名其國曰「大金」,故韃名其國曰「大銀」。其主初僭皇帝號者,小名曰「忒沒真」,僭號曰「成吉思皇帝」。今者小名曰「兀窟解」,其耦僭號者八人。

Nước của người Thát đen tên “Đại Mông Cổ”. Đất sa mạc có núi Mông Cổ (1). Tiếng Thát gọi bạc là “Mông Cổ”. Người Nữ Chân đặt tên nước mình là “Đại Kim” nên người Thát đặt tên nước là “Đại Ngân”. Vua của họ ban đầu tiếm xưng danh hiệu hoàng đế, tên riêng là “Thắt Mộc Chân”(Temujin), tiếm hiệu là “Thành Cát Tư Hãn hoàng đế”(Činggis). Nay biệt danh là Ngột Quật Giải (Ogodai), có tám người phối ngẫu (vợ) với ông mang tên đó.

(1) Sa mạc ở đây là sa mạc Gobi

2. 其子曰闊端、曰闊除、曰河西觓(立為偽太子,讀漢文,書其師馬錄事)、曰合剌直;其相四人,曰按只觓、曰移剌楚材、曰粘合重山,共理漢事,曰鎮海,四人專理回回國事。

Con trai của vua tên là Khoát Đoan (Kodon), Khoát Trừ (Koc̆u), Hà Tây Cầu (Qašidai), Hợp Lạt Trực (1) (Qarac̆ar) (người này được lập làm ngụy Thái Tử, đọc Hán Văn, thầy dạy của y họ Mã). Tể tướng của họ gồm có bốn người, tên An Chỉ Cầu, Di Lạt Sở Tài, Niêm Hợp Trọng San, cùng lo việc về Trung Quốc. Người thứ tư gọi là Trấn Hải, chuyên lo việc Hồi Hồi.

(1) Tên Mông Cổ của bốn con trai của Thành Cát Tư Hãn theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Jöchi, Çağatay, Ögedei và Tolui. Vợ cả của Thành Cát Tư Hãn là Börte. Bốn người con trai này là con Börte. Ngoài bốn người con này Thành Cát Tư Hãn còn rất nhiều con với nhiều người đàn bà khác.

霆至草地時,按只角已不為矣,黏合重山隨屈術偽太子南侵。次年,屈術死,按只角代之,粘合重山復為之助。移剌及鎮海自號為「中書相公」,總理國事,鎮海不止理回回也,韃人無相之稱,只稱之曰「必澈澈」者,漢語令史也,使之主行文書爾。

3.
其地出居庸則漸高漸闊,出沙井則西望平曠無際,天間有達,初若崇峻,近前則坡阜而已。

霆所見沙石亦無甚大者,只是碎沙、小石而已。

4.
其氣候寒冽,無四時八節。四月、八月常雪,風色微變。近而居庸關北如官山、金蓮川等處,雖六月亦雪。

霆自草地回程,宿野狐嶺下正是七月初五日,早起極冷,手足俱凍。

5.
其產野草。四月始青,六月始茂,八月又枯,草之外咸無焉。 

6.
其畜牛、犬、馬、羊、橐駝,胡羊則毛氄而扇尾,漢羊則曰「骨律」,橐駝有雙峰者、有孤峰者、無有峰。

霆見草地之牛純是黄牛,甚大,與江南水牛等。最能走,既不耕犁,只是拽車,多不穿鼻。

7.其居穹廬,無城壁棟宇,遷就水草,無常。韃王日徙帳以從獵較,凡偽官屬從行。日起營牛、馬、橐駝以挽其車上室,可坐、可臥,謂之帳輿。輿之四角或植以杖,或交以板,用表敬天,謂之飲食車,派而五之,如蟻陣,縈紆延袤十五里,左右橫距及其直之半。得水則止,謂之定營。主帳南向獨居,前列妾婦,次之偽扈衛,及偽官屬又次之。凡韃主獵帳所在,皆曰「窩裏陀」,其金帳故名。凡偽嬪妃與聚落群起,獨曰「大窩裏陀」者。其地卷阿負坡阜以殺風勢,猶漢移蹕之所,亦無定止,或一月,或一年遷。

霆至草地時,立金帳。想是以本朝皇帝親遣使臣來,故立之以示壯觀。前綱鄒奉使至,不曾立;後綱程大使更後綱周奉使至,皆不立。其  
掣即是草地大氈帳,上下用氈為衣,中間用柳編為窗眼透明,用千余餘索拽住,閾與柱皆以金里,故名。可容數百人。韃主所坐胡床如禪寺講座,亦飾以金,後妃等次第而坐,如構欄然

8.
穹廬有二樣。燕京之制用柳木為骨,止如南方罘罳可以卷舒,面前開門,上如傘骨,頂開一竅,謂之「天窗」,皆以氈為衣,馬上可載。草地之制,用柳木織成硬圈,徑用氈挽定,不可卷舒,車上載行,水草盡則移,初無定日。

9.
其食肉而不粒,獵而得者曰兔、曰鹿、曰野彘、曰黃鼠、曰頑羊、曰黃羊、曰野馬、曰河源之魚。牧而庖者以羊為常,牛次之,非大宴會不刑馬。火燎者十九,鼎烹者十二三,臠而先食,然後食人。

霆住草地一月余餘,不曾見韃人殺牛以食。

10.
其飲,食馬乳與牛羊酪,凡初酌,甲必自飲,然後飲乙。乙將飲,則先與甲、丙、丁呷,謂之口到。甲不飲,則轉以飲丙。丙飲訖,酌而飲乙,乙又未飲,而飲丁。如丙禮,乙才飲訖,酌而酬甲,甲又序酌以飲丙丁,謂之換盞。本以防毒,後習以為常,其味鹽一而已。

霆出居庸關,過野狐嶺千里,入草地,曰「界里濼,其水沃而夜成鹽,客以米來易,歲至數千石。更深入,見韃人所,見韃人所食之鹽曰「斗鹽」,其水白於雪,其〔下缺〕於牙,其底平如斗,故名「斗鹽」,蓋鹽之精英者。愈北,其地多礆,其草宜焉。

11.其爨草炭

12.
其燈,草炭以為心,羊脂以為油;其俗射獵,凡其主打圍,必大會眾,挑土以為坑,插木以為表,維以毳索,系以氈羽,猶漢兔罝之智,綿亙一二百里間。風飈羽飛,則獸皆驚駭,而不敢奔逸,然後蹙圍攫擊焉。

霆見行下韃戶取毛索及氈,亦頗以為苦。霆沿路所乘鋪馬,大半剪去其鬃。叩之,則曰以為索綱之用。窩里陀為打獵圍場,自九月起至二月止,凡打獵時,常食所獵之物,則少殺羊。

13.
其冠,被發而椎髻,冬帽而夏笠,婦頂故姑。

霆見故姑之製,用畫木為骨,包以紅絹金帛,頂之上用四、五尺長柳枝或銀打成枝,包以青氈。其向上人,則用我朝翠花或五採帛飾之,令其飛動。以下人則用野雞毛。婦女美色,用狼糞塗面。

14.
其服,右衽而方領,舊以氈毳革,新以紵絲金線,色用紅紫、紺綠,紋以日月龍鳳,無貴賤等差。

霆嘗考之,正如古深衣之製,本只是下領,一如我朝道服領,所以謂之方領。若四方上領,則亦是漢人為之。韃主及中書向上等人不曾著。腰間密密打作細摺,不記其數,若深衣止十二幅,韃人摺多耳。又用紅紫帛捻成線,橫在腰,謂之腰線,蓋馬上腰圍緊束突出,採艷好看。

15.
其言語,有音而無字,多從借聲,譯而通之謂之「通事」。

霆見其自上至下則稱小名,即不曾有姓,亦無官稱。如管文書則曰「必澈澈」,管民則曰「達魯花赤」,環衛則曰「火魯赤」,若宰相即是「楚材」輩,自稱為中書相公。若王楫戈則自稱「銀青光祿大夫」、「禦史大夫」「宣撫使」、「入國使爾。初非韃主除授也。

16.
其所謂,有小名而無姓,心有所疑,則改之。

17.
其禮,交抱以揖,左跪以為拜。

霆見其交抱即是廝摟。

18.
其位置以中為尊,右次之,左為下。

19.
其正朔,昔用十二支辰之象,今用六甲輪流,皆漢人、女真教之。若韃之本俗,初不理會得,只是草青則為一年,新月初生則為一月。人問其庚甲若干,則倒指而數幾青草。

霆在燕京宣德州見有歷書,亦印成冊。問之,乃是移剌楚材自算、自印造、自頒行,韃主亦不知之也。楚材能天文、能詩、能琴、能參禪,頗多能,其髭髯極黑,垂至膝,嘗官作角子,人物極魁梧。

20.
其擇日行,則視月盈虧以為進止,見新月必拜。

21.
其事書之以木板,驚蛇屈蚓,如天書符篆,如曲譜五凡工尺,回回字殆兄弟也。

霆嘗考之,韃人本無字書,然今之所用,則有三種。行於韃人本國者,則只用小木,長三四寸,刻之四角,且如差十馬則刻十刻,大率則其數也。其俗淳而心專,故言語不差,其法說謊者死,故莫敢詐偽。雖無字書,自可立,此小木即古木契也。行於回回者,則用回回字,鎮海主之,回回則有二十個字母,其余餘只就偏傍上湊成。行於漢人、契丹、女真諸亡國者,只用漢字,移剌楚材主之,卻又於後面年月之前,鎮海親寫回回字「付與某人」,此蓋專防楚材,故必以回回字為驗,無此則不成文書。殆欲使之經山鎮海,亦可互相檢尼也。燕京市學,多教回回字及韃人譯語。才會譯語,便做通事,便隨韃人行,打恣作威福,討得撒花,討得物事。契丹、女真元自有字,皆不用。

22.
其印曰「宣命之寶」,文字疊篆而方徑三寸有奇,鎮海主之,無封押以為之防。事無巨細,須偽酋自決。楚材、重山、鎮海得同握韃柄;凡四方之事,或未有韃主之命,而生殺予奪之權已移於弄邱者之手。

霆嘗考之,只是見之文書者,則楚材、鎮海得以行其私意,蓋韃主不識字也。若行師用軍等大事,只韃主自斷,又卻與骨肉謀之,漢兒及他人不與也。每呼韃人為「自家骨頭」,雖至細交訟事,亦用撤花直造韃主之前,然終無不決而去。

23.
其占筮,則灼羊之枚子骨,驗其文理之逆順,而辨其吉兇。天棄人予,一決於此,信之甚篤,謂之「燒琵琶」。事無纖粟,必占,占不再四而已。

霆隨一行使命至草地,韃主數次燒琵琶,以蔔使命去留,想是燒琵琶中當歸,故得遣歸。燒琵琶即鉆龜也。

24.
其常談,必曰「托著長生天底氣力、皇帝底福蔭」。彼所為之事,則曰「天教憑地」。人所已為之事,則曰「天識著」,無一事不歸之天。自韃主至於民,無不然。

25.
其賦斂差發,數馬而乳,宰羊而食,皆視民戶畜牧之多寡而征之,猶漢法之上供也。置蘸之法,則聽諸酋頭項自定。差使之久近漢民。除工匠外,不以男、女。歲課城市丁絲二十五兩,牛羊絲五十兩。鄉農身絲百兩,米則不以耕稼廣狹,歲戶四石;漕運銀綱合諸道,歲二萬鋌。旁蹊曲徑而科敷者不可勝言。

霆所過沙漠,其地自韃主、偽後、太子、公主、親族而下,各有疆界,其民戶皆出牛馬車仗、人夫、羊肉馬奶為差發。蓋韃人分草地各出差發,貴賤無有壹人得免。又有壹項,各出差發,為各地分蘸中之需,上下亦壹體,此乃草地差發也。至若漢地差發,每戶每丁以銀折絲綿之外,每使臣經,從調選軍馬、糧食、器械及壹切公上之用,又逐時計其合用之數,科率民戶。諸亡國之人,甚以為苦,怨憤徹天,然終無如之何也。韃主不時自草地差官出漢地,定差發。霆在燕京,見差胡丞相來,黷貨更可畏,下至教學行、乞兒行亦銀作差發。燕教學行有詩雲:「教學行中要納銀,生徒寥落太清貧。金馬玉堂盧景善,明月清風範子仁。李舍才容講德子,張齋恰受舞雩人。相將共告胡丞相,免子之時捺殺因。」此可見其賦斂之法。

26.
其貿易,以羊馬、金銀、縑帛。

27.
其賈販,則自韃主以至偽太子、偽公主等,皆付回回以銀,或貨之民而行其息。一鋌之本,展轉十年後,其息一千二十四鋌。或市百貨而貿遷,或托夜偷而責償於民。

霆見韃人只是撒花,無壹人理會得賈販。自韃主以下,只以銀與回回,令其自去賈販以納息,回回自轉貸與人,或多方賈販,或詐稱被劫,而責償於州縣民戶。大率韃人止欲絲、鐵鼎、色木,動使不過衣食之需。漢兒及回回等人販入草地,韃人為之,回回又以物置無人之地,卻遠遠車望,才有人觸著,即來昏賴。回回之狡心最可畏,且多技巧,會諸國言語,真是了得。

28.
其官稱,或「贊國王」,或「權皇帝」,或「郡王」,或「宣差」。諸國亡俘或曰「中書丞相」,或「將軍」、或「侍郎」、或「宣撫運使」,隨所自欲而盜其名。初無宣麻制誥之事。

霆嘗考之,韃人初未嘗有除授及諸俸,韃主亦不曉官稱之義為何也。韃人止有虎頭金牌、銀牌,或有勞自出金銀,請於韃主許其自打牌,上鐫回回字,亦不出於「長生天底氣力」等語爾。外有亡金之大夫,混於雜役,隨於屠沾去為黃冠,皆尚稱舊官。王宣撫家有推車數人,呼「運使」、呼「侍郎」。長春官多有亡金朝士,既免跋焦,免賤役,又得衣食,最令人慘傷也。

29.
其民戶,體統十人謂之排子頭,自十而百,百而千,千而萬,各有長。

30.
其國禁草生而劚地,遺火而爇草者,誅其家;拾遺者、履閾者、筮馬之面目者、相與淫奔者,誅其身;食而噎者、口鼻之衄者,罪其心之不吉;軸毳簾而外者,責其心系韃主之頸;騎而相向者,其左而過,則謂之相順;食人以肉,而接以左手,則謂之相逆;酌乳酪而傾器者,謂之斷後;遭雷與火者,盡棄其資畜而逃,必期年而後返。

霆見韃人每聞雷霆,必掩耳,屈身至地,若蟬避狀。

31.
其賞罰,則俗以任事為當然,而不敢以為功。其相與以告戒,每曰其主遣我火裏去、或水裏去,則與之去,言及饑寒艱苦者,謂之觓。故其國平時無賞,惟用兵戰勝,則賞以馬或金銀牌,或竹絲緞。陷城則縱其擄掠子女、玉帛,擄掠之前後,視其功之等差,前者插箭於門,則後者不敢入,有過則殺之,謂之按打奚,不殺則充八都魯軍。或三次,然後免。其罪之至輕者,沒其資之半。

霆見其一法最好,說謊者死。

32.
其犯寇者,殺之,沒其妻子、畜產,以入受寇之家。或甲之奴盜乙之奴物,皆沒甲與奴之妻子、畜產而殺其奴及甲,謂之斷案主,其見物則謂之「撒花」,予之,則曰「捺殺」,因韃語「好」也。不予,則曰「冒」,韃語「不好」也。撒花者,漢語「好」也。

33.
其騎射,則孩時繩束以板,絡之馬上,隨母出入;三歲索維之鞍,俾手有所執射,從眾馳騁;四五歲挾小弓、短矢;及其長也,四時業田獵,凡其奔驟也,跂立而不坐,故力在跗者八九,而在髀者一二。疾如飈至,勁如山壓,左旋右折,如飛翼。故能左顧而射右,不持抹鞦而已。

34.
其步射,則八字腳步闊而腰蹲,故能有力而穿劄。

霆見韃靼耆婆,在野地生子纔畢,用羊毛揩抹,便用羊毛包裹,束在小車內,長四尺,闊一尺。耆婆徑扶之馬上而行。

35.
其馬野牧,無芻粟。六月饜草始肥。牡者四齒則扇,故闊壯而有力,柔順而無性,能風寒而久歲月。不扇,則反是耳。易嘶駭,不可設伏,蹄鍥薄而怯石者,葉以鐵或以板,謂之腳澀。凡馳驟勿飽,凡鞍解,必索之而仰其首,待其氣調息平,四蹄冰冷,然後縱其水草,牧者謂之「兀剌赤」。回回居其三,漢人居其七。

霆嘗攷韃人養馬之法。自春初罷兵後,凡出戰歸,並恣其水草,不令騎動,直至西風將生,則取而之,執於帳房左右,啖以些少水草。經月膘落,而日騎之數百里,自然無汗,故可以耐遠而出戰。尋常正行路時,並不許其吃水草,蓋辛苦中吃水草,成膘而生病。此養馬之良法,南人反是,所以多病也。其牡馬留十分壯好者,作移剌馬種外,餘者都扇了。所以無不強壯也。移剌者,公馬也。不曾扇,專管騍群,不入扇馬隊,扇馬、踝馬各自為群隊也。馬多是四、五百匹為群隊,只兩兀剌赤管。手執雞心鐵撾以當鞭箠,馬望之而畏。每遇早晚,兀剌赤客領其所管之馬環列於主人帳房前,少頃各散。每飲馬時,其井窟止可飲四五馬,各以資次先後來,飲足而去。次日複至,若有越次者,兀剌赤遠揮鐵撾,俯首駐足,無敢亂,最為整齊。其騍群,每移剌馬一匹管騍群五、六十匹,騍馬出群,移剌馬必咬踢之,使歸。或他群移剌馬踰越而來,此群移剌馬必咬踢之,使去。摯而有別,尤為可觀。其鞍轡輕簡,以便馳騁,重不盈七、八斤,鞍之雁翅齒前堅而後平,故折旋而不傷登;圓故足中立而不偏;底闊,故靴易入;綴登以革,故手柔而不滑;灌以羊脂,故不受雨而不斷爛;闊不踰一寸,長不逮四總,故立馬轉身極順。

36.
其軍,即民之年十五以上者,有騎士而無步卒,人二三騎或六七騎謂之一紏。武酋、健奴自鳩為伍,專在主將之左右,謂之八都魯軍,曩攻河西女真諸國,驅其入而攻其城。

Quân đội của họ gồm dân trên mười lăm tuổi. Quân chỉ có kỵ sĩ mà không có bộ tốt. Những người có hai ba hay sáu bảy con người được gọi là nhất củ. Võ đầu, Kiến nô tự gộp lại thành nhóm năm người, chuyên ở bên cạnh chủ tướng, gọi họ là quân "Bát Đô Lỗ" (Bağatur-dũng sĩ). Trước kia khi công các nước Hà Tây (Tangut-Tây Hạ) và Nữ Chân thì họ làm quân tiên phong công thành.

霆往來草地,未嘗見有一人步行者。其出軍,頭目騎一馬,又有五六匹或三四匹自隨,常以準備緩急,無者亦一二匹。

37.其軍器有柳葉甲、有羅圈甲、有頑羊角弓、有響箭、有駝骨箭、有批針,剡木以為栝,落鵬以為翎;有環刀,效回回樣,輕便而犀利,靶小而褊,故運掉也易;有長、短槍,刃板如鑿,故著物不滑,可穿重劄;有旁牌以革編絳,否則以柳,闊三十寸,而長則倍於闊之半;有團牌,時前鋒臂之,下馬而射,專為破敵之用;有鐵團牌,以代兜鍪,取其入陣轉旋之便;有拐子木牌,為攻城避炮之具。每天酋頭項各有一旗,只一面而已,常卷常偃,凡遇督戰,才舒即卷。攻城則有炮,炮有棚,棚有綱索以為挽索者之蔽,向打鳳翔,專力打城之一角,嘗立四百座,其餘器具不一而足。其長技,弓矢為第一,環刀次之。

Quân khí của họ gồm có giáp lá liễu (1), giáp "la quyển"(2), cung làm từ sừng hươu, tên có tiếng, tên từ xương lạc đà, tên nhọn như kim. Đuôi tên được đẽo từ gỗ, lông tên làm từ lông chim ưng. Họ có hoàn đao(3), giống như của người Hồi Hồi (Uyghurs), nhẹ mà sắc bén, cán nhỏ mà hẹp nên dùng để gạt đỡ cũng dễ. Họ có thương dài và ngắn, lưỡi đao như cái đục, cho nên khi đâm không bị trơn, có đâm xuyên trọng giáp. Họ có khiên phụ, dùng da bện lại, nếu không dùng liễu, rộng ba mươi thốn, mà chiều dài chỉ bằng nữa chiều rộng (15 thốn). Họ có khiên tròn để tiền phong đeo, xuống ngựa mà bắn, chuyên dùng để phá địch. Họ có khiên tròn sắt, dùng thay mũ đâu mâu, tiện xoay sở khi nhập trận địch. Họ có khiên bằng gỗ Quải Tử, là công cụ tránh pháo (tức máy bắn đá) khi công thành. Mỗi ngày mỗi hạng Tù Đầu có một lá cờ, cờ chỉ có một mặt, thường xếp gấp lại, gặp lúc đốc chiến, mới duỗi thẳng ra. Công thành thì có pháo, pháo có giàn, giàn có xích sắt để che chở cho người kéo dây, như hồi công (lộ) Phượng Tường (thuộc nước Kim), chuyên tập trung lực lượng công một góc thành, thường xây bốn trăm tòa pháo như thế. Các thứ khí cụ khác bất nhất nhưng đủ dùng. Sở trường của họ nhất nằm ở cung tên , kế tiếp đến hoàn đao.

(1) Giáp trụ Đông Á thường làm từ nhiều phiến giáp nhỏ đan lại với nhau bằng chỉ hay dây nhỏ. Trên mỗi phiến đều có đục nhiều lỗ để xỏ dây. Giáp lá liễu là để chỉ mỗi phiến giáp có hình giống lá liễu.

(2) Giáp la quyển: giáp lá quyển thường được làm từ da bò. Các phiến giáp nối lại với nhau như vây cá.

(3) Hoàn đao: đao của người Mông Cổ hơi cong

霆嘗攷之,韃人始初草昧,百工之事無一而有,其國除孽畜外,更何所產?其人椎朴,安有所能?止用白木為鞍,橋以羊皮,橙亦剜木為之,箭鏃則以骨,無從得鐵。後來滅回回,始有物產,始有工匠,始有器械。蓋回回百工技藝極精,攻城之具尤精,後滅虜金虜,百工之事於是大備。

38.其軍糧,羊與泲馬。馬之初乳,日則聽其駒之食,夜則聚之以泲,貯以革器、澒洞數宿,微酸,始可飲。謂之「馬奶子」。才犯他境,必務抄掠,孫武子曰「因糧於敵」是也。

霆嘗見其日中馬奶矣,亦嘗問之。初無拘於日與夜,之之法,先令駒子啜教乳路來,即趕了駒子,人即用手下皮桶中,卻又傾入皮袋撞之,尋常人只數宿便飲。初到金帳,韃主飲以馬奶,色清而味甜,與尋常色白而濁、味酸而膻者大不同,名曰「黑馬奶」,蓋清黑。問之,則云此實撞之七八日,撞多則氣清,清則不膻,只此一處得飲,他處更不曾見。五食之奉如此。又兩次,金帳中送葡萄酒,盛以玻璃瓶,一瓶可得十餘小盞,其色如南方柿汁,味甚甜,聞多飲亦醉,但無緣得多耳。回回國貢來。

39.
其行軍常恐沖伏。雖偏師亦必先發精騎,四散而出,登高眺遠,深哨一二百里間,掩捕居者、行者以審左右前後之虛實,如某道可進、某城可攻、某地可戰、某處可營、某方敵兵、某所糧草,皆責辨哨馬回報。如大勢軍馬並力蝟集,則先燒琵琶,決擇一人以統諸部。

霆見韃人未嘗屯重兵於城內,所過河南北郡縣,城內並無一兵,只城外村落哨馬星散擺布,忽遇風塵之警,哨馬響應,四向探刺,如得其實,急報頭目及大勢軍馬也。

40.
其營必擇高阜,主將駐帳必向東南,前置邏騎,韃語「托落」者,分番警也。帳之左右與帳後諸部軍馬,各歸頭項,以席而營。營又貴分,務令疏曠,以便芻秣。營留二馬,夜不解鞍,以防不測;營主之名即是夜號,一營有警,則旁營備馬,以待追襲。餘則整整不動也。惟哨馬之營則異於是,主者中據,環兵曰表,傳木刻以代夜邏。秣馬營裏,使無奔逸,未暮而營,其火謂之「火鋪」。及夜則遷於人所不見之地,以防夜劫,而火鋪則仍在於初營之所,達曉不動也。

Doanh trại ắt phải đặt ở chỗ cao. Nha trướng của chủ tướng tất đặt hướng đông nam. Phía trước đặt quân kỵ tuần canh, tiếng Thát gọi là "Thác lạc", phân phiên canh phòng. Quân mã ở hai bên tả hữu và phía sau trướng đều quy thuộc Đầu đinh (chỉ huy), xếp theo cấp bậc mà lập doanh. Doanh trại nhất thiết phải thưa thoáng rộng rãi, để tiện chăn nuôi, Trong doanh trại có lưu hai con ngựa, đêm không được tháo yên, để phòng bất tắc. Tên của chủ doanh là mật khẩu ban đêm. Một khi trong doanh có báo động, thì doanh kế bên chuẩn bị ngựa, để đợi truy đánh địch. Các doanh khác thì án binh bất động. Riêng doanh có ngựa tuần canh thì khác các doanh kia (ý tứ ở đây không rõ ràng), truyền nhau lệnh bài (nguyên văn là 木刻 (mộc khắc) tức tranh khắc gỗ, ở đây tối nghĩa, Erich Haenisch và Yao Ts`ung-wu dịch sang tiếng Đức là Kerbholz, là thẻ lệnh để truyền lệnh từ tướng đến binh lính) để thay phiên canh gác đêm. Ngựa được cho ăn trong doanh trại để chúng không bỏ chạy. Chưa đến chập tối thì lập doanh trại, lửa trong doanh gọi là "hỏa phô". Đến khi trời tối thì dời doanh trại đến chỗ người ta không thấy, để phòng việc bị đánh úp ban đêm, mà lửa chỉ vẫn ở chỗ lập doanh trại ban đầu, đến sáng sớm lửa vẫn còn.

霆見其多用狗鋪,其下營直是日,要審觀左右營勢。

Đình thấy họ dùng nhiều hỏa phô (nguyên văn là cẩu phô, nghi chữ cẩu  chép sai), họ hạ doanh trại cho đến sáng, cần xem xét địa thế tả hữu.

41.其陣利野戰,不見利不進。動靜之間,知敵強弱;百騎不撓,可裏萬眾;千騎分張,可監百裏;推()堅陷陣,全藉前鋒;衽革當先,例十之三。凡遇敵陣,則三三五五四五,斷不簇聚,為敵所包。大率步宜整,而騎宜分。敵分亦分,敵合亦合,故其騎突也,或遠或近,或多或少,或聚或散,或出或沒,來如天墜,去如雷逝,謂之「鴉兵撒星陣。」其合而分,視馬箠之所向;其分而合,聽姑詭之聲以自為號。自邇而遠,俄頃千裏。其夜聚。則望燎煙而知其所戰。宜極寒而無雪,則磨石而禱天。

Cách đánh trận của họ lợi ở dã chiến, không thấy lợi thì không tiến. Nghe động tĩnh mà biết được địch mạnh hay yếu. Trăm kỵ không loạn, có thể bao được vạn người, nghìn kỵ phân tán, có thể rải khắp trăm lí. Họ toàn cậy vào quân tinh nhuệ làm tiền phong hãm trận, quân đeo giáp làm tiền phong,  chiếm ba phần mười. Phàm gặp trận địch, thì phân thành tốp ba ba, năm năm hay bốn năm (1), tuyệt nhiên không co cụm lại để bị địch bao vây. Đại khái bộ binh thì hợp lại, còn kỵ binh thì tản ra. Địch phân thì họ cũng phân, địch hợp thì họ cũng hợp, cho nên quân đột kỵ của họ, hoặc xa hoặc gần, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc tụ hoặc tán, hoặc ẩn hoặc hiện, đến như trời sập xuống, đi như sấm chớp, họ gọi đó là “Nha binh tản tinh trận”. Lúc hội họp mà tản ra thì nhìn theo phương hướng của roi ngựa (của chủ tướng). Lúc đang phân tán mà họp lại thì nghe theo tiếng trống làm hiệu. Từ gần tới xa, thoắt (bao được) đã nghìn lý. Lúc tối tụ họp thì nhìn theo khói đuốc mà biết mình ở đâu. Trời cực lạnh mà không có tuyết thì mài đá để tế trời

(1) Theo Erich Haenisch và Yao Ts`ung-wu thì cụm "
三三五五四五" (ba ba năm năm bốn năm) chỉ số quân nhóm họp thành một đội (đơn vị quân sự).

霆見韃人行軍,只是一個不睹,是蠻逼而已,彼亦是人,如何不怕死?但自用師南侵日,少曾吃虧,是膽愈壯,而愈無敵也。韃人糧食因只是車馬隨行,不用運餉,一軍中寧有多少韃人,甚餘盡是亡國之人。韃人隨行羊馬,自食尚不足,諸亡國之人亦須要糧米吃。以是知不可但誇韃人之強,而不思在我自強之道也。

42.其破敵,則登高眺遠,先審地勢,察敵情偽,專務乘亂。故交鋒之始,每以騎隊輕突敵陣,一衝纔動,則不論眾寡,長驅直入。敵雖十萬,亦不能支。不動則前隊橫過,次隊再衝。再不能入,則後隊如之。方其衝敵之時,乃遷延時刻,為布兵左右與後之計。兵既四合,則最後至者一聲姑詭,四方八面響應齊力,一時俱撞。此計之外,或臂團牌,下馬步射。一步中鏑,則兩旁必潰,潰則必亂,從亂疾入。敵或見便以騎蹙步,則步後駐隊馳敵迎擊。敵或堅壁,百計不中,則必驅牛畜或鞭生馬,以生馬攪地,敵陣鮮有不敗。敵或森戟外列,拒馬絕其奔突,則環騎疏哨,時發一矢,使敵勞動。相持既久,必絕食或乏薪水,不容不動,則進兵相逼。或敵陣已動,故不遽擊,待其疲困,然後衝入;待其兵寡,然後則先以土撒,後以木拖,使塵衝天地,疑兵眾,每每自潰;不潰則衝,其破可必。或驅降俘,聽其戰敗,乘敵力竭,擊以精銳;或纔交刃,佯北而走,詭棄輜重,故擲黃白,敵或謂是城敗,逐北不止,衝其伏騎,往往全沒。或因其敗而巧計取勝,只在乎彼縱此橫之間,有古法之所未言者。其勝則尾敵襲殺,不容逋逸。其敗則四散進,追之不及。

Phép phá địch của họ, trước hết là lên chỗ cao nhìn ra xa, xem địa thế, xét địch tình. Vì chuyên thừa cơ địch rối loạn nên lúc bắt đầu giao phong, thường dùng kỵ đội xông thẳng vào trận địch, mới xông vào mà địch đã núng thì không kể đông hay ít, ồ ạt tiến lên, địch tuy chục vạn, cũng không thể đương được. Nếu địch không núng, thì đội phía trước tản ngang ra, đội tiếp theo xông lên, nếu không vào được thì đội sau nữa lại tiến lên như vậy. Đương lúc xung trận địch, vẫn trì hoãn thời khắc đặng bày kế bố binh trái phái và phía sau địch. Binh sĩ tức thì bốn phương hợp lại. Kẻ tới sau cùng giống lên một tiếng trống thì bốn phương tám hướng hưởng ứng hợp lực, nhất thời cùng xông vào. Ngoài kế này ra, còn có kế cho kỵ đội đeo khiên tròn, xuống ngựa bộ xạ, một khi bắn trúng tên, thì hai cánh quân ắt tan vỡ, tan vỡ ắt loạn, nhân loạn thâm nhập nhanh vào trận địch. Nếu địch có kẻ thừa cơ dùng kỵ áp sát bộ binh thì kỵ đội đặt phía sau quân bộ ruổi ngựa ứng chiến. Nếu trận địch vững chắc, trăm kế không xông vào được, thì họ xua bò, quất ngựa cho súc vật đâm vào trận địch, ít khi mà địch không bại. Nếu địch chĩa giáo tủa ra chống, không để ngựa xông vào, thì họ cho quân kỵ bọc xung quanh, thỉnh thoảng bắn một mũi tên, khiến cho địch phải vất vả. Cầm cự ít lâu, địch tất không có ăn hay thiếu củi nước, không thể không nao núng, bấy giờ họ mới tiến quân uy hiếp, hoặc là trận địch đã núng nhưng họ không đánh ngay, đợi địch mệt mỏi rồi mới xông vào. Nếu quân của họ ít thì trước hết lấy đất rải ra, sau đó lấy cây kéo, khiến cho bụi bay mù trời, địch nghi là quân đông, thường tự tan vỡ, nếu không tan vỡ thì xông vào, tất thế nào cũng phá được. Có khi họ xua hàng binh lên trước, cố để cho thua, đợi lúc địch kiệt sức, mới đem quân tinh nhuệ ra đánh. Có khi vừa giao chiến, đã giả thua chạy, vờ bỏ xe cộ, vứt vàng bạc, địch cho là bại thật, đuổi mãi không thôi, gặp phải quân kỵ phục kích của họ, thưòng là bị tiêu diệt hết.... Họ mà thắng thì đuổi theo địch chém giết, không để trốn thoát, họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp.

43.
其軍馬將帥,舊謂之十七頭項。忒沒真。偽大太子拙職,偽二太子茶合觓,偽三太子兀窟觓,偽四太子駝欒。忒沒哥窩真、控只觓、撥都馬、暮花裏國王、紇忒郡王、蕭夫人、阿海、禿花、明安、劉伯林,兵數多寡,不得而知。但一夫而數妻,或一妻而數子,昔稀今稠,則有增而無減。今之頭項,又不知其幾,老酋宿將,死者過半。曩與京虜交兵,今關河之間,如速不觓忒、沒觓忒、塔察爾、按察爾卻尚無恙,然戰不休,則續能兵者,又似不乏。

霆見其俗,一夫有數十妻,或百餘妻,一妻之畜產至富。成吉思立法只要其種類子孫蕃衍,不許有妒忌者。今韃主兀窟角丙午生胡,而黑韃人少髯,故多必貴也。霆在金帳前,忽見韃主同一二人出帳外射宮。只韃主自射四五箭,有二百步之遠。射畢,即入金帳。

44.
其頭項分戍,則窩真之兵在遼東,茶合觓之兵在回回,撥都附馬之兵在河西,各有後顧之憂。黑韃萬戶八人,人不滿萬,但伯叔、兄弟、子侄、親戚之兵不隸萬戶之數。萬戶四人,如嚴實之在鄆州,則有山東之兵。史天翼之在真定,則有河東、河北之兵。張柔之在滿城,則有燕南之兵。劉黑馬之在天城,則有燕薊山後之兵。他雖有領眾者,俱不若此四人兵數之多,事力之強也。如遼東、河西、回回諸國之又在漢萬戶之外。

霆在草地,見其頭目民戶車載輜重,及老少畜產,盡室而行,數日不絕,亦多有十三四歲者。問之,則云此皆韃人調往征回回國,三年在道,今之年十三四歲,到彼則十七八歲,皆已稱勝兵。回回諸種,盡已臣服,獨此一種回回,正在西州後門相對。其國之城三百里,出產甚富,地暖,產五穀、果木,瓜之大合抱,至今不肯臣服,茶合角徵之數年矣,故此更增兵也。

45.
其殘虐諸國,已破而無事者,東南曰韃金虜;西北曰奈蠻,曰烏鵒,曰速裏,曰撒裏韃、白杌裏;正北曰達塔,曰蔑裏乞;正南曰西夏。已爭而未竟者,東曰高麗,曰遼東萬奴,厥相王賢佐,年餘九十,有知來之明;東北曰妮叔,曰那海益律子;西南曰斛速益律子,曰木波;西北曰克鼻梢,初順韃,後叛去,阻水相抗。忒沒真生前常曰:非十年工夫,不可了手,若待了手,則殘金種類又毓盛矣。不如留苛合觓鎮守,且把殘金絕後,然後理會。癸巳年,茶合觓嘗為太子所劫。曰脛陳韢;正北曰辣吸紿。或削其國,或俘其眾,如高麗、萬奴、狗國、水韃靼、木波皆可置而不問,惟克鼻梢一國稍武,餘燼不撲,則有燎原之憂,此韃人所必爭者。

霆見王楫戈云:某向隨成吉思攻西夏,西夏國俗,自其主以下皆敬國師,凡有女子,必先以薦國師,而後敢適人。成吉思滅其國,先臠國師。國師者,比丘僧也。其後隨成吉思攻金國鳳翔府,城破而成吉思死。嗣主兀窟角含哀云:金國牢守潼關、黃河,卒未可破。我思量鳳翔通西川,投南必有路可通黃河。後來遂自西川迤邐入金,房出浮光,徑造黃河之里,竟滅金。蓋韃人專求馬蹄實路,又使命臨發草地。楚材說與大使:你們只恃著大江,我朝馬蹄所至,天上天上去,海裡海裡去。

46.
其從軍而死也,駝其屍以歸,否則罄其資橐而瘞之。

霆見其死於軍中者,若奴婢能自駝其主尸首以歸,則給以畜產。他人致之,則全有其妻子、畜產。

47.
其墓無冢,以馬踐蹂,使如平地。若忒沒真之墓,則插矢以為垣,邏騎以為衡。

霆見忒沒真墓在瀘溝河之側,山水環繞,相傳雲忒沒真生於斯,即死,葬於斯,未知果否。

霆初歸自草地,嘗編敘其土風俗。及至鄂渚,與前網書狀官彭大雅解,後各出所編以相參考,亦無大遼絕。遂彭所編者為定本,間有不同,則霆復書於下方。然此亦述大略,其詳則見之《北征日記》雲。

嘉熙丁酉孟夏朔,永嘉徐霆長孺書。


Nguồn tham khảo:

Meng-ta pei-lu und Hei-ta shih-lüeh: Chinesische Gesandtenberichte über die Frühen Mongolen 1221 und 1237 (Mông Đại Bắc Lục và Hắc Thát Sự Lược: Sứ giả Trung Quốc đến nước Mông Cổ thuở đầu từ 1221 đến 1237)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HISTORY OF YUAN: BIOGRAPHY OF URYANGQADAI (CHAPTER 412): A TRANSLATION AND ANNOTATION (宋史孟珙傳注譯(卷412)注譯)

  1.   兀良合台,初事太祖。時憲宗為皇孫,尚幼,以兀良合台世為功臣家,使護育之。憲宗在潛邸,遂分掌宿衞。歲(乙)〔癸〕巳,[5]領兵從定宗征女真國,破萬奴於遼東。繼從諸王拔都征欽察、兀魯思、阿〔速〕、孛烈兒諸部。[6]丙午,又從拔都討孛烈兒乃、捏迷思部,平之。己酉,定宗崩。...