Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

KIM SỬ DI LẠT BỒ A TRUYỆN CHÚ DỊCH (QUYỀN 112) (金史移剌蒲阿傳注譯(卷112)注譯)

 

Kim Sử quyển 112: Di Lạt Bồ A truyện (移剌蒲阿卷112)

Về tên gọi của Di Lạt Bồ A (移剌蒲阿)

Di Lạt Bồ A được viết thành 移剌蒲阿 trong Kim Sử. Đại Kim Quốc Chí, thành sách vào khoảng nửa sau Nam Tống viết thành Y Lạt Bồ A (伊喇蒲阿). Sách của Quy Tiềm Chí (歸潛志) của Lưu Kì (劉祁) (1230-1259) gọi là Di Lạt Bồ Ngõa (移剌蒲瓦)

Nguyên văn, dịch văn và chú thích 

1. 移剌蒲阿,本契丹人,少從軍,以勞自千戶遷都統。初,哀宗為皇太子,控制樞密院,選充親衛軍總領,佩金符。元光二年冬十二月庚寅,宣宗疾大漸,皇太子異母兄英王守純先入侍疾,太子自東宮扣門求見,令蒲阿衷甲聚兵屯于艮嶽,以備非常。哀宗即位,嘗謂近臣言:「向非蒲阿,何至於此。」遂自遙授同知睢州軍州事,權樞密院判官,自是軍國大計多從決之。

Di Lạt Bồ A, vốn là người Khiết Đan, tòng quân từ nhỏ, vì có công lao nên được thăng từ Thiên Hộ lến đến chức Đô Thống. Ban đầu, Ai Tông được lập làm hoàng thái tử, Bồ A nhậm chức Đề Khống Khu Mật Việt, được tuyển sung vào làm Thân Vệ Quân Tổng Quản, đeo kim phù. Năm thứ hai Nguyên Quang (1223), mùa đông (24 tháng 12 năm 1223 đến 21 tháng 1 năm 1224), tháng mười hai, Tuyên Tông lúc ấy đã bệnh nặng, anh là hoàng thái tử cùng cha khác mẹ Anh Vương Hoàn Nhan Thủ Thuần vào cung trước hầu bệnh, thái tử tự Đông Cung kéo cửa đòi xem, bèn lệnh cho Bồ A mặc áo giáp tụ tập quân binh đóng ở Cấn Nhạc, để phòng có biến. Lúc Ai Tông lên ngôi, thường nói với cận thần rằng: "Trước kia nếu không vì Bồ A, ta sao có được như ngày hôm nay?" Do vậy trao chức Đồng Tri Tuy Châu Quân Châu Sự, tạm làm Khu Mật Viện Phán Quan. Từ đó việc quân trong nước có kế sách lớn nào đều nhiều khi nghe theo y.

Kim Sử, quyển 16, Tuyên Tông Bản Kỷ, quyển hạ:

二年,[...]十二月,[...]丁亥,上不豫,免朝。戊子,皇太子率百官及王妃、公主入問起居。己丑,復入問起居。庚寅,上崩于寧德殿,壽六十有一。上疾大漸,暮夜,近臣皆出,惟前朝資明夫人鄭氏年老侍側,上知其可托,詔之曰:「速召皇太子主後事。」言絕而崩。夫人秘之。是夜,皇后及遣妃龐氏問安寢閣。龐氏陰狡機慧,常以其子守純年長不得立,心鞅鞅。夫人恐其為變,即紿之曰:「上方更衣,后妃可少休他室。」伺其入,遽鑰之,急召大臣,傳遺詔立皇太子,始啟戶出后妃,發喪。皇太子方入宮,英王守純已先入,皇太子知之,分遣樞密院官及東宮親衛軍官移剌蒲阿集軍三萬餘于東華門街。部署即定,命護衛四人監守純於近侍局,乃即皇帝位於柩前。壬辰,宣遺詔。是日,詔赦中外。明年正月戊戌朔,改元正大,諡大行曰繼天興統述道勤仁英武聖孝皇帝,廟號宣宗。三月庚申,葬德陵。

Nguyên Quang năm thứ hai, tháng mười hai, đinh hợi (11 thắng 1 năm 1224), hoàng thượng (Tuyên Tông) không khỏe, miễn triều.  Mậu tí (12 tháng 1 năm 1224), hoàng thái tử soái lĩnh trăm quan cùng vương phi, công chúa vào vấn bệnh hỏi thăm. Kỷ sửu (13 tháng 1 năm 1224), lại vào vấn bệnh. Canh dần (14 tháng 1 năm 1224), hoàng thượng băng hà ở điện Vĩnh Đức, thọ sáu mươi mốt tuổi. Hoàng thượng bị trọng bệnh, sớm chiều cận thần đều ra, duy có Tư Minh Phu Nhân của tiền triều họ Trịnh tuổi già cầu cận cạnh gường, hoàng thượng biết bà có thể phó thác, bèn chiếu rằng: "Cấp tốc cho vời hoàng tái tử chủ trị hậu sự." Nói dứt lời thì băng hà. Phu Nhân giấu đi. Đêm ấy, hoàng hậu cùng dĩ phi (tức vợ kế của vua đã qua đời) họ Bàng đến thăm hỏi trong phòng cạnh gường. Họ Bàng thâm hiểm giảo hoạt thông minh, thường vì con mình là (Hoàn Nhan) Thủ Thuần không được lập làm thái tử, trong tâm sinh bất mãn. Phu nhân sợ sẽ Bàng thị gây biến, liền nói dối với ả rằng: "Hoàng thượng vừa thay áo, hậu phi có thể nghỉ ngơi giây lát ở phòng thất khác." Đợi ả đi ra rồi, vội vàng khóa cửa lại, tức thì vời đại thần lại, truyền tin sai chiếu lập hoàng thái tử rồi mới mở cửa cho hậu phi họ Bàng ra, phát tang. Lúc hoàng thái tử vừa vào cung, Anh Vương Thủ Thuần đã vào từ trước, hoàng thái tử biết được, liền sai Khu Mật Viện Quan cùng Đông Cung Thân Vệ Quân Quan Di Lạt Bồ A tập hợp hơn ba vạn ở lối nhỏ dẫn vào cửa Đông Hoa Môn. Bố trí xong rồi, lệnh hộ vệ bốn người giám sát Thủ Thuần ở Cận Thị Cục, xong rồi lập tức xưng hoàng đế bên cạnh linh cửu tiên vương. Nhâm thìn (16 tháng 1 năm 1224), tuyên cáo di chiếu (chiếu chỉ cuối cùng của tiên vương. Ngày hôm đó, chiếu đại xá trong ngoài. Năm sau, tháng giêng, mùng một mậu tuất (22 tháng 1 năm 1224), đổi nguyên hiệu là Chính Đại, thụy hiệu là Kế Thiên Hưng Thống Thuật Đạo Cần Nhân Anh Vũ Thánh Hiếu Hoàng Đế, miếu hiệu Tuyên Tông. Tháng ba, canh thân (13 tháng 4 năm 1224), an táng ở Đức Lăng).

Kim Sử, quyển 93, Tuyên Tông tam tử (ba con của Kim Tuyên Tông) ghi:

是年十二月庚寅,宣宗病喉痹,危篤,將夕,守純趣入侍。哀宗後至,東華門已閉,聞守純在宮,分遣樞密院官及東宮親衛軍總領移剌蒲阿集軍三萬余屯東華門外。

Năm này, tháng mười hai, canh dần (), Tuyên Tông bệnh sưng yết hầu, bệnh tình nguy ngập, sắp băng, Thủ Thuần vào cung hầu cận. Ai Tông mất rồi, của Đông Hoa môn đã đóng, nghe nói Thủ Thuần đang trong cung, bèn sai Khu Mật Viện Quan và Đông Cung Thân Vệ Quân Tổng Lĩnh Di Lạt Bồ A tập hợp hơn ba vạn quân đồn ở ngoài cửa Đông Hoa Môn.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

正大元年,[...]六月辛卯遣樞密判官移剌蒲阿率兵至光州,榜諭宋界軍民更不南伐。

Chính Đại năm thứ nhất, [...], tháng sáu, tân mão (13 tháng 7 năm 1224), sai Khu Mật Phán Quan Di Lạt Bồ A soái lĩnh quân đến Quang Châu, yết thị chỉ dụ nói cho quân dân địa giới nước Tống rằng sẽ không nam phạt nữa.  

九月,樞密判官移剌蒲阿複澤、潞、獲馬千疋。

Tháng chín, Khu Mật Phán Quan Di Lạt Bồ A khôi phục hai châu Trạch và Lộ, đoạt được nghìn con ngựa.

二年[...],冬十[...]乙亥,[...]移剌蒲阿及宋人戰於光州,獲馬數千,數人千餘而還。

Năm thứ hai, tháng mười, Di Lạt Bồ A cùng người Tống chiến ở Quang Châu, đoạt được vài nghìn ngựa và hơn nghìn người rồi về.

三年[...][...]八月,乙亥移剌蒲阿複曲沃及晉安。

Năm thứ ba, tháng tám, ất hợi (26 tháng 8 năm 1224), Di Lạt Bồ A khôi phục Khúc Ốc và Tấn An.

2. 正大四年十二月,河朔軍突入商州,殘硃陽、盧氏。蒲阿逆戰至靈寶東,遇游騎十餘,獲一人,餘即退,蒲阿輒以捷聞。賞世襲謀克,仍厚賜之。人共知其罔上,而無敢言,吏部郎中楊居仁以微言取怒。

Năm Chính Đại thứ tư, tháng mười hai (từ 9 tháng 1 năm 1228 đến 7 tháng 2 năm 1228), Hà Sóc quân bất ngờ xâm nhập vào Thương Châu, tàn hoại Chu Dương và Lô Thị. Bồ A nghịch chiến đến phía Đông Linh Bảo, gặp du kỵ hơn mười tên, bắt được một, còn lại đều rút chạy. Bồ A liền báo tin tiệp (thắng trận). Thưởng thế tập mưu khác, ban tặng hầu hỉ cho y. Người người đều biết y lừa dối hoàng thượng, nhưng không ai dám lên tiếng. Lại Bộ Lang Trung Dương Cư Nhân bóng gió ám chỉ y khiến y nổi giận.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

四年二月,蒲阿、牙吾塔複平陽,執知府李七斤,獲馬八千。

Năm thứ tư, tháng hai (18 tháng 2 năm 1227 đến 18 tháng 3 năm 1227), Di Lạt Bồ A và Nha Ngô Tháp khôi phục Bình Dương, bắt Tri Phủ Lý Thất Cân, đoạt được tám nghìn ngựa.

3. 六年二月丙辰,以蒲阿權樞密副使。自去年夏,北軍之在陝西者駸駸至涇州,且阻慶陽糧道。蒲阿奏:「陝西設兩行省,本以籓衛河南,今北軍之來三年於茲,行省統軍馬二三十萬,未嘗對壘,亦未嘗得一折箭,何用行省。」院官亦俱奏將來須用密院軍馬勾當,上不語者久之。是後,以丞相賽不行尚書省事於關中,召平章政事合達還朝,白撒亦召至闕,蒲阿率完顏陳和尚忠孝軍一千駐邠州,且令觀北勢。八月丙申,蒲阿再複潞州。十月乙未朔,蒲阿東還。

Năm thứ sáu (1229), tháng hai, bính thần (ngày 14 tháng 3 năm 1229), lấy Bồ A tạm làm Khu Mật Phó Sứ. Tự năm ngoái mùa hạ, quân Bắc tại Thiểm Tây xâm nhập đến Kính Châu, hơn nửa còn cản trở đường vận lương tới Khánh Dương. Bồ Á tấu rằng: "Thiểm Tây đặt hai Hành Tỉnh, vốn để che chở bảo vệ cho Hà Nam. Nay quân Bắc đến nơi này tới nay đã ba năm, Hành Tỉnh thống lĩnh quân mã hai bai mươi vạn, chưa từng đối lũy (tức chống chọi), cũng chưa từng có được một mũi tên gãy, như vậy thì việc gì phải dùng đến Hành Tỉnh." Khu Mật Viện đều tấu sắp tới nên dùng quân mã của Khu Mật Viện hành sự, hoàng thượng không nói gì hồi lâu. Sau việc ấy, lấy Thừa Tướng Hoàn Nhan Tái Bất làm Thượng Thư Tỉnh Sự ở Quan Trung, gọi Bình Chương Chính Sự Hợp Đạt quay về triều, Hoàn Nhan Bạch Tát cũng được chiêu về chầu cửa khuyết, Bồ A soái lĩnh một nghìn quân Trung Hiếu Quân của Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng đồn ở Bân Châu. lại lệnh quan sát sự tình phía Bắc. Tháng tám, bính giáp (ngày 21 tháng 8 năm 1229), Bồ A lại thâu phục được Lộ Châu. Tháng mười, mùng một, ất vị (ngày 19 tháng 10 năm 1229), Bồ A về phía Đông.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

六年春二月丙辰,樞密院判官移剌蒲阿權樞密副使。耀州刺史李興有戰功,詔賜玉兔鶻帶、金器。以丞相完顏賽不行尚書省事於關中,召平章政事完顏合達還朝。移剌蒲阿率忠孝軍總領完顏陳和尚忠孝軍一千騎駐邠州。遣白華馳諭蒲阿以用兵之意。詔樞密更給忠孝軍馬疋,以漸調發都尉司步卒及忠孝馬軍屯京西。以白華專備軍須。

Năm thứ sáu, xuân, tháng hai, bính thìn (ngày 14 tháng 3 năm 1229), Khu Mật Viện Phán Quan Di Lạt Bồ A tạm nắm chức Khu Mật Viện Phó Sứ, Diệu Châu Thứ Sử Lý Hưng lập chiến công, chiếu tặng thỏ bằng ngọc, đai hình chim muông, kim khí (đồ bằng vàng). Lấy Thừa Tướng Hoàn Nhan Tái Bất làm Hành Thượng Thư Tỉnh ở Quan Trung, chiêu vời Bình Chương Chính Sự Hoàn Nhan Ngọc Đạt về triều. Di Lạt Bồ A soái lĩnh một nghìn kỵ binh Trung Hiếu Quân của Trung Hiếu Quân Tổng Lĩnh Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng đến đồn trú ở Bân Châu. Sai Hoàn Nhan Bạch Hoa đi ngựa trạm đến dụ Bồ A về ý định dụng binh. Chiếu cho Khu Mật Viện cung cấp ngựa cho Trung Hiếu Quân, cho điều phát bộ binh của Đô Úy Ti và quân kỵ mã của Trung Hiếu Quân đồn trú ở Kinh Tây, cho Bạch Hoa chuyển và chuẩn bị quân nhu.

八月,移剌蒲阿再複澤、潞。

Tháng tám (12 tháng 8 đến 18 tháng 9 năm 1229), Di Lạt Bồ A lại khôi phục được Trạch và Lộ Châu.

冬十月,移剌蒲阿東還,令陳和尚率陝西歸順馬軍屯鈞、許。大元兵駐慶陽界。詔陝西行省遣使奉羊酒幣帛乞緩師請和。

Mùa đông, tháng mười (19 tháng 10 đến 17 tháng 11 năm 1229), Di Lạt Bồ A quay về phía đông, lệnh cho Trần Hòa Thượng soái lĩnh kỵ binh quy thuận ở Thiểm Tây đồn trú ở  Quân và Hứa Châu. Quân Đại Nguyên ruổi ngựa vào địa giới Khánh Dương. Chiếu Thiểm Tây Hành Tỉnh khiển sai sứ giả dâng rượu, tiền và vải vóc cầu hoãn binh xin giảng hòa.

十二月,詔副樞蒲阿、總帥紇石烈牙吾塔、權簽樞密院事完顏訛可救慶陽。

Tháng mười hai (18 tháng 12 đến 15 tháng 1 năm 1229), chiếu Phó Khu Mật Viện Sứ Bồ A, Tổng Quản Hột Thạch Liệt Nha Ngô Tháp, Quyền Thiêm Khu Mật Viện Sự Hoàn Nhan Ngoa Khả cứu viện Khánh Dương.

4.十二月乙未,詔蒲阿與總帥牙吾塔、權簽樞密院事訛可救慶陽。七年正月,戰北兵于大昌原,北軍還,慶陽圍解。詔以訛可屯邠州,蒲阿、牙吾塔還京兆。未幾,以權參知政事與合達行省於閿鄉。八年正月,北軍入陝西,鳳翔破,兩行省棄京兆而東,至洛陽驛,被召議河中事,語在白華傳。

Tháng mười hai, ất vị (18 tháng 12 năm 1229), chiếu Bồ A cùng Tổng Soái Nha Ngô Tháp, Quyền Thiêm Khu Mật Viện Sự Hoàn Nhan Ngoa Khả cứu viện Khánh Dương. Nắm thứ bảy (1230), chính nguyệt (từ 16 tháng 1 đến 14 tháng 2 năm 1229), chiến với quân Bắc ở Đại Xương Nguyên, quân Bắc rút lui, Khánh Dương được giải vây. Chiếu cho Ngoa Khả đồn ở Bân Châu, Bồ A, Nha Ngô Tháp quay về Kinh Triệu. Không lâu sau, sai Quyền Tham Tri Chính Sự cùng Hoàn Nhan Hợp Đạt đặt Hành Tỉnh ở Văn Hương. Năm thứ tám (1231), chính nguyệt, quân Bắc phạm vào Thiểm Tây, Phụng Tường bị phá, hai Hành Tỉnh bỏ Kinh Triệu mà tiến về phía Đông, đến trạm Lạc Dương, lại được vời đến bàn nghị việc ở Hà Trung, nội dung kể ở phần truyện Bạch Hoa (tức Kim Sử, quyển 140).

Kim sử, quyển 114, Hoàn Nhan Bạch Hoa truyện ghi:

九月,陝西行省防秋,時大兵在河中,睿宗已領兵入界,慶山奴報糧盡,將棄京兆而東。一日,白華奏,偵候得睿宗所領軍馬四萬,行營軍一萬,佈置如此,「為今計者,與其就漢禦之,諸軍比到,可行半月,不若徑往河中。目今沿河屯守,一日可渡,如此中得利,襄、漢軍馬必當遲疑不進。在北為投機,在南為掣肘,臣以為如此便」。上曰:「此策汝畫之,為得之他人?」華曰:「臣愚見如此。」上平日銳于武事,聞華言若欣快者,然竟不行。

Tháng chín, Thiểm Tây Hành Tỉnh phòng bị mùa thu, bấy giờ đại quân (Mông Cổ) đang ở Hà Trung, Nguyên Túc Tông (Tolui) lĩnh binh thâm nhập địa giới, Khánh Sơn Nô báo tin hết lương, sắp bỏ Kinh Triệu đi về Đông. Có một ngày, Bạch Hoa tấu rằng, trinh sát dò la được quân mã mà Túc Tông thống lĩnh có bốn vạn, quân canh hành doanh đông một vạn, bố trí như thế, "Kế ngày nay rằng, so với phòng ngự sông Hán, chư quân nếu tới phải mất nửa tháng, không bằng tiến đến Hà Trung. Trước mắt ven theo đồn thủ trên sông Hoàng Hà mà đi, một ngày có thể vượt sông, nếu như trong quá trình làm như vậy đạt thắng lợi, thì quân mã (địch, tức Mông Cổ) ở Tương Dương và sông Hán sẽ phải do dự không dám tiến. Ở phía Bắc chớp lấy cơ hội, ở phía Nam làm vướng chân tay (địch), thần cho như vậy là tiện." Hoàng thượng hỏi: "Kế này ngươi nghĩ ra, là do biết được từ người khác?" Bạch Hoa trả lời: "Ngu kiến của thần là như vậy". Hoàng thượng thường ngày quyết chí ở việc quân, nghe thấy lời của Bạch Hoa rất lấy làm vui mừng, song rốt cục không theo.

未幾,合達自陝州進奏帖,亦為此事,上得奏甚喜。蒲阿時在洛陽,驛召之,蓋有意於此矣。蒲阿至,奏對之間不及此,止言大兵前鋒忒木泬統之,將出冷水穀口,且當先禦此軍。上曰:「朕不問此,只欲問河中可搗否。」蒲阿不獲已,始言睿宗所領兵騎雖多,計皆冗雜。大兵軍少而精,無非選鋒。金軍北渡,大兵必遣輜重屯於平陽之北,匿其選鋒百里之外,放我師渡,然後斷我歸路與我決戰,恐不得利。」上曰:「朕料汝如此,果然。更不須再論,且還陝州。」蒲阿曰:「合達樞密使所言,此間一面革撥恐亦未盡,乞召至同議可否。」上曰:「見得合達亦止此而已,往復遲滯,轉致誤事。」華奏合達必見機會,召至同議為便。副樞赤盞合喜亦奏蒲阿、白華之言為是。上乃從之。召合達至,上令先與密院議定,然後入見。既議,華執合達奏帖舉似再三,竟無一先發言者。移時,蒲阿言:「且勾當冷水穀一軍何如。」合達曰:「是矣。」遂入見。上問卿等所議若何,合達敷奏,其言甚多,大概言河中之事與前日上奏時勢不同,所奏亦不敢自主,議遂寢。二相還陝,量以軍馬出冷水谷,奉行故事而已。十二月,河中府破。

Không lâu sau, Hoàn Nhan Hợp Đạt tự Thiểm Tây dâng tấu chương, cũng nói việc ấy, hoàng thượng nhận được bài tấu rất mừng. Di Lạt Bồ A bấy giờ đang ở Lạc Dương, dùng ngựa trạm cho vời tới, có lẽ cũng có ý muốn làm như thế. Bồ A đến (diện kiến hoàng thượng), lúc dâng tấu trả lời không nhắc đến việc ấy, chỉ nói tiền phong của đại quân do Thắc Mộc Quyết thống lĩnh, sắp ra khỏi cửa Lãnh Thủy Cốc, hơn nữa đang trước tiên phòng ngự đạo quân này. Hoàng thượng nói: "Trẫm không hỏi việc này, chỉ muốn hỏi có thể quấy rối Hà Trung hay không" Bồ A bất đắc dĩ mới nói kỵ binh mà Túc Tông đang soái lĩnh tuy đông, nhưng đa phần đều quân tạp nham. Đại quân (Mông Cổ) tuy ít nhưng tinh nhuệ, không ai không qua tuyển chọn. Khi quân Kim lên phía Bắc, đại quân ắt phải dời xe truy trọng đồn ở phía Bắc Bình Dương, giấu quân tiền phong ngoài trăm lý, để cho quân ta vượt sông, sau đó chặn đứt đường lui cùng quân ta quyết chiến, thần sợ không có lợi cho ta." Hoàng thượng nói: "Ta cũng liệu ý khanh như thế, không cần phải bàn luận gì thêm, khanh hãy về Thiểm Tây." Bồ A nói: "Những lời mà Khu Mật Viện Sứ Hợp Đạt tấu, nay chỉ nghe một bên mà bãi bỏ, e không tiện, xin cho vời y tới cùng bàn nghị, có được không?" Hoàng thượng nói: "Gặp được Hợp Đạt cũng chỉ có thế, bàn luận tới lui trễ nãi, có khi thành ra thất cơ lỡ sự." Bạch Hoa tâu Hợp Đạt tất thấy có cơ hội, cho vời tới cùng bàn là tiện. Khu Mật Viện Sứ Xích Trản Hợp Hỉ cũng tấu nói lời của Bồ A và Bạch Hoa là đúng. Hoàng thượng do vậy nghe theo. Hoàng thượng lệnh trước hết cho Khu Mật Viện nghị định, sau đó cho vào cầu kiến. Bàn luận xong, Bạch Hoa cầm tờ tấu chương của Hợp Đạt giơ lên hai ba lần, nhưng chẳng ai mở lời mà nói, Bồ A hỏi: "Bàn việc đạo quân ở Lãnh Thủy Cốc thế nào rồi?" Hợp Đạt nói: "Đúng." Bèn vào diện kiến, hoàng thượng hỏi các khanh bàn nghị như thế nào rồi, Hợp Đạt đọc bài tấu, nội dung rất nhiều, đại loại nói rằng việc ở Hà Trung so với việc hôm trước dâng tấu không giống nhau, cũng không tự dám quyết những điều mà mình tấu. Bàn nghị cũng dừng, hai Tể Tướng quay về Thiểm Tây, lượng lấy quân mã ra Lãnh Thủy Cốc, làm theo việc cũ mà thôi." Ngày hai mươi, Hà Trung Phủ bị phá.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

七年春正月,副樞蒲阿、總帥牙吾塔、權簽院事訛可解慶陽之圍。以訛可屯邠州,蒲阿、牙吾塔還京兆。

Năm thứ bảy, xuân, chính nguyệt (16 tháng 1 đến 14 tháng 2 năm 1230), Phó Khu Mật Viện Sứ Di Lạt Bồ A, Tổng Soái Nha Ngô Tháp, Quyền Xiêm Viện Sự Ngoa Khả giải vây Khánh Dương, cho Ngoa Khả đồn ở Bân Châu, có lẽ cũng có ý như thế.

冬十月,平章合達、副樞蒲阿引兵救衛州。衛州圍解,上登承天門犒軍,合達、蒲阿並世襲謀克。移剌蒲阿權參政事,同合達行省事於閿鄉,以備潼關。

Mua đông, tháng mười (7 tháng 11 đến 5 tháng 12 năm 1230), Phó Khu Mật Viện Sứ Di Lạt Bồ A dẫn binh cứu Vệ Châu. Vệ Châu được giải vây, hoàng thượng lên cổng Thừa Thiên Môn khao quân. Hợp Đạt và Bồ A đều được thế tập mưu khắc. Di Lạt Bồ A tạm làm Tham Tri Sự, cùng Hợp Đạt lập Hành Tỉnh ở Văn Hương để phòng bị Đồng Quan.

八年春正月,大元兵圍鳳翔府。遣樞密院判官白華、右司郎中夾谷八裏門諭閿鄉行省進兵,合達、蒲阿以未見機會不行。複遣白華諭合達、蒲達將兵出關以解鳳翔之圍,又不行。

Năm thứ tám, xuân, chính nguyệt (4 tháng 2 đến 5 tháng 3 năm 1231), quân Đại Nguyên vây phủ Phụng Tường, sai Khu Mật Viện Phán Quan Hoàn Nhan Bạch Hoa, Hữu Ti Lang Trung Giáp Cốc Bát Lí Môn cầm chiếu dụ cho Văn Hương Hành Tỉnh tiến binh. Hợp Đạt và Bồ A chưa thấy có cơ hội nên không làm. Lại sai Bạch Hoa dụ cho Hợp Đạt và Bồ A đem quân ra khỏi quan ải giải vây cho Phụng Tượng, vẫn không làm.

五月,李全妻楊妙真以全陷沒于宋,構浮梁楚州北,欲複宋讎。遣合達、蒲阿屯桃源界滶河口,以備侵軼。宋八裏莊人拒其主將納合達、蒲阿。詔改八裏莊為鎮淮府。

Tháng năm (2 tháng 6 đến 1 tháng 7 năm 1231), thê tử của Lý Toàn là Dương Diệu Chân vì Toàn bị vây hãm ở Tống, buộc cầu nổi ở phía bắc Sở Châu, muốn phục thù nhà Tống. Sai Hợp Đạt và Bồ A đồn quân ở địa giới Đào Nguyên Ao Giang Khẩu (cửa sông Ao), để phòng bị xâm chiếm tiêu diệt. Bát Lý Trang người Tống chống chủ tướng của y, quay sang hàng Hợp Đạt và Bồ A. Xuống chiếu đổi Bát Lý Trang làm Chân Hoài Phủ.

秋七月,宋將焚浮梁。

Mùa thu tháng bảy (31 tháng 7 đến 28 tháng 8 năm 1231), Tống sắp đốt cầu nổi.

九月丙申,[...]大元兵駐河中府。慶山奴棄京兆東還。召合達、蒲阿赴汴,議引兵趨河中府,懼不敢行,還陝州,出師至冷水穀而歸。大元兵攻河中府,合達、蒲阿遣元帥王敢率兵萬人救之。

Tháng chín, bính thân (10 tháng 10 năm 1231), quân Đại Nguyên đồn trú ở Hà Trung Phủ. Khánh Sơn Nô bỏ Kinh Triệu quay về phía đông. Vời Hợp Đạt và Bồ A về Biện Kinh, nghị bàn dẫn quân về Hà Trung Phủ, sợ không dám đi, bèn quay về Thiểm Châu, xuất quân ở Lãnh Thủy Cốc mà quay về. Quân Đại Nguyên công Hà Trung Phủ, Hợp Đạt và Bồ A sai Nguyên Soái Vương Cảm soái lĩnh vạn người cứu Hà Trung Phủ.

5. 十二月,北兵濟自漢江,兩省軍入鄧州,議敵所從出,謂由光化截江戰為便,放之渡而戰為便、張惠以「截江為便,縱之渡,我腹空虛,能不為所潰乎?」蒲阿麾之曰:「汝但知南事,于北事何知。我向於裕州得制旨雲,'使彼在沙磧,且當往求之',況今自來乎。汝等更勿似大昌原、舊衛州、扇車回縱出之。」定住、高、樊皆謂蒲阿此言為然。合達乃問按得木,木以為不然。軍中以木北人,知其軍情,此言為有理,然不能奪蒲阿之議。

Tháng mười hai (25 tháng 12 năm 1231 đến 23 tháng 1 năm 1232), quân Bắc vượt sông Hán, quân hai Hành Tỉnh vào Đặng Châu, bàn nghị về chỗ địch xuất binh, nói rằng từ Quang Hóa chặn sông hay để chúng qua sông rồi đánh tiện, Trương Huệ cho rằng: "Chặn đánh trên sông tiện, thả để chúng vượt sông, trước mặt ta trốn không, có thể nào quân ta không tan vỡ?" Bồ A gạt tay bảo: "Ngươi chỉ biết việc phương nam, việc phía bắc làm sao hiểu. Ta trước đây ở Dụ Châu nhận được chiếu chỉ nói, để tặc đi vào bãi cát rồi thách đánh chúng, vả lại nay chúng tự tìm đến. Bọn ngươi chớ có thả chúng thoát như ở Đại Xương Nguyên, Vệ Châu cũ và Phiến Xa Hồi." Bàn nghị đã Định, Cao Anh, Phàm Trạch đều cho lời này của Bồ A là đúng. Hợp Đạt bèn hỏi Án Đắc Mộc, Đắc Mộc cho là không phải. Trong quân cho rằng Đắc Mộc là người phương Bắc, biết sự tình quân bị, lời ông ta có lý, nhưng vẫn không khiến Bồ A thay đổi chủ ý.

6. 順陽留二十日,光化探騎至,雲「千騎已北渡」,兩省是夜進軍,比曉至禹山,探者續雲「北騎已盡濟」。癸酉,北軍將近,兩省立軍高山,各分據地勢,步迎於山前,騎屯於山后。甲戌,日未出,北兵至,大帥以兩小旗前導來觀,觀竟不前,散如雁翅,轉山麓出騎兵之後,分三隊而進,輜重外余二萬人。合達令諸軍,「觀今日事勢,不當戰,且待之。」俄而北騎突前,金兵不得不戰,至以短兵相接,戰三交,北騎少退。北兵之在西者望蒲阿親繞甲騎後而突之,至於三,為蒲察定住力拒而退。大帥以旗聚諸將,議良久。合達知北兵意向。時高英軍方北顧,而北兵出其背擁之,英軍動,合達幾斬英,英複督軍力戰。北兵稍卻觀變,英軍定,複擁樊澤軍,合達斬一千夫長,軍殊死鬥,乃卻之。

Lưu ở Thuận Dương hai mươi ngày, thám báo từ Quang Hóa báo về có kỵ binh đến, nói rằng: "Nghìn kỵ đã vượt sông về Bắc", hai Hành Tỉnh đêm ấy tiến quân, gần đây đến núi Vũ Sơn, thám báo nói tiếp "Bắc kỵ đã vượt sông hết rồi." Quý dậu (15 tháng 1 năm 1232), quân Bắc vừa tới, hai hành tỉnh bày quân trên núi cao, mỗi người phân nhau chiếm cứ địa thế có lợi, bộ binh hướng ra phía trước núi, kỵ binh đồn ở phía sau. Giáp tuất, mặt trời còn chưa ló dạng, quân Bắc đến, (Mông Cổ) Đại Soái lấy hai lá cờ hiệu cho tiền đạo tiến lên quan sát (thế trận), quan sát rồi lệnh không tiến tới phía trước, phân tản ra như cánh nhạn, chuyển đến chân núi phía sau kỵ binh (quân Kim) mà xuất binh, chia thành ba đội mà tiến, trừ quân canh xe truy trọng ra có hơn hai vạn người. Hợp Đạt lệnh chư quân: "Xem tình thế hôm nay, không nên chiến, chờ chúng vậy." Không lâu sau Bắc kỵ đột kích phía trước, quân Kim không thể không đánh, đến lúc đoản binh giao nhau, chiến ba hiệp, Quân Bắc ở phía Tây thấy giáp kỵ thân quân của Bồ A liền đột kích chúng, đánh ba hiệp, bị chủ lực của Bộ A bám trụ lực chiến nên rút lui. (Mông Cổ) Đại Soái lấy cờ tập hợp chư tướng, nghị bàn rất lâu. Hợp Đạt biết ý định của quân Bắc. Bấy giờ quân của Cao Anh vừa quay ra phía Bắc, vậy mà quân Bắc yểm đánh phía sau lưng, quân của Anh nao núng, Hợp Đạt xuýt chém Cao Anh, Anh lại đôn đốc quân lực chiến. Quân Bắc hơi lui về quan sát trận biến, quân Cao Anh lại ổn định, (quân Bắc) lại yểm tập quân của Phàn Trạch, Hợp Đạt chém đầu tới một nghìn phu trưởng, quân binh mới thừa sống bán chết chiến, quân Bắc bèn rút lui.

7. 北兵回陣,南向來路。兩省復議:「彼雖號三萬,而輜重三之一焉。又相持二三日不得食,乘其卻退當擁之。」張惠主此議,蒲阿言:「江路已絕,黃河不冰,彼入重地,將安歸乎?何以速為。」不從。乙亥,北兵忽不知所在,營火寂無一耗。兩省及諸將議,四日不見軍,又不見營,鄧州津送及路人不絕,而亦無見者,豈南渡而歸乎?己卯,邏騎乃知北軍在光化對岸棗林中,晝作食,夜不下馬,望林中往來,不五六十步而不聞音響,其有謀可知矣。

Quân Bắc rút khỏi trận địa, hướng về phía Nam mà rút. Hai Hành Tỉnh lại bàn nghị: "Tặc tuy phao lên ba vạn, nhưng quân giữ xe truy trọng chiếm một phần ba rồi. Lại trì nhau thêm hai ba ngày không được ăn, thừa lúc chúng rút nên đánh úp chúng." Trương Huệ nhất trí kế này, nhưng Bồ A lại nói: "Giang lộ đã tuyệt, hoàng hà không đóng băng, tặc đã rơi vào trọng địa, làm sao chúng rút lui? Hà cớ gì phải vội." Không nghe theo. Ất hợi, đột nhiên không biết quân Bắc ở đâu, lửa trong doanh trại tắt ngúm không một động tĩnh. Hai Hành Tỉnh cùng chư tướng nghị bàn, bốn ngày không thấy quân chúng đâu, lại không thấy doanh trại, bến đò Đặng Châu tải lương () cùng người đi đường đông không ngới, vậy mà cùng không thấy gì cả, có lẽ nào chúng lội sông xuống phía nam quay về không? Kỷ mảo, quân kỵ tuần tra mới biết quân Bắc đang ở Quang Hóa bờ đối diện với rừng Tảo Lâm, ban ngày ăn uống, ban đêm không xuống ngựa, thấy đi lại trong rừng, nếu không đứng gần năm sáu mươi bộ thì không nghe thấy âm thanh. âm mưu của chúng có thể biết vậy.

8. 初,禹山戰罷,有二騎迷入營,問之,知北兵凡七頭項,大將統之。複有詐降者十人,弊衣羸馬泣訴艱苦,兩省信之,易以肥馬,飲之酒,及暖衣食而置之陣後,十人者皆鞭馬而去,始悟其為覘騎也。

Ban đầu, lúc bãi trận ở núi Vũ, có hai tên kỵ lạc đường rơi vào doanh trại, tra hỏi chúng thì biết quân Bắc có tổng cộng bảy đầu đinh, đại tướng thống soái chúng. Lại có mười tên trá hàng, quần áo rách rưới ngựa ốm gầy gò khóc kể lể gian khổ, hai Hành Tỉnh tin chúng, đổi cho chúng ngựa béo, cho chúng uống rượu, đến khi cho chúng mặc đồ ấm rồi xếp đặt chúng ớ phía sau trận, mười tên đều ruổi ngựa bỏ chạy đi mất, bấy giờ mới hiểu chúng là quân trinh báo.

9. 庚辰,兩省議入鄧就糧,辰巳間到林後,北兵忽來突,兩省軍迎擊,交綏之際,北兵以百騎邀輜重而去,金兵幾不成列,逮夜乃入城,懼軍士迷路,鳴鐘招之。樊澤屯城西,高英屯城東。九年正月壬午朔,耀兵于鄧城下。北兵不與戰,大將使來索酒,兩省與之二十瓶。癸未,大軍發鄧州,趨京師,騎二萬,步十三萬,騎帥蒲察定住,蒲察答吉卜,郎將按忒木,忠孝軍總領夾穀愛答、內族達魯歡,總領夾穀移特剌,提控步軍臨淄郡王張惠,殄寇都尉完顏阿排、高英、樊澤,中軍陳和尚,與恆山公武仙、楊沃衍軍合。是日,次五朵山下,取鴉路,北兵以三千騎尾之,遂駐營待楊武。

Canh thìn (22 tháng 1 năm 1232), hai Hành Tỉnh bàn vào thành Đặng Châu lấy lương thực, giữa ngày thìn tị thì đến sau rừng, quân Bắc bất ngờ đến, hai Hành Tỉnh ứng chiến, lúc giao phong, quân Bắc lấy trăm kỵ đón đầu xe truy trọng kéo đi (), quân Kim gần như không có hàng ngũ, kịp lúc trời tối mới vào thành, sợ quân sĩ lạc được, giống chuông gọi chúng đến. Phàm Trạch đồn ở phía tây thành, Cao Anh đồn ở phía đông. Năm thứ chín, chính nguyệt, nhâm ngọ, mùng một, duyệt binh dưới thành Đặng Châu. Quân Bắc không giao chiến, Đại Tướng () sai người đến tìm rượu, hai Hành Tỉnh đưa cho chúng hai mươi vò. Quý mùi, đại quân xuất phát từ Đặng Châu, tiến về hướng kinh sư, kỵ binh hai vạn, bộ binh mười ba vạn, Kỵ Soái Bồ A Định Trụ, Bồ A Đáp Cát Bốc, Lương Tướng An Thắc Mộc, Trung Hiếu Quân Tổng Lĩnh Giáp Cốc Ái Đáp, Nội Tộc Đạt Lỗ Hoan, Tổng Lĩnh Đích Cộc Di Đặc Lạt, Đề Khống Bộ Binh Lâm Quận Vương Trương Huệ, Điễn Khấu Đô Úy Hoàn Nhan A Bài, Cao Anh, Phàm Trạch, Trung Quân Trần Hòa Thượng, cùng với Hằng Sơn Công Võ Tiên, Dương Ốc Diễn hợp quân. Ngày hôm đó, đến núi Ngũ Đóa Sơn, theo đường Nha Lộ, quân Bắc lấy ba nghìn kỵ bám đuôi, bèn hạ doanh trại chờ Dương Vũ.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

十二月丙子,合達、蒲阿將兵禦于禹山之前。大元兵分道趨汴京,京城戒嚴。是夜二鼓,合達、蒲阿引軍還鄧州。大元兵躡其後,盡獲其輜重。

Tháng mười hai, bính tử (18 tháng 1 năm 1232), Hợp Đạt và Bồ A đem binh phòng ngự ở trước núi Vũ Sơn. Quân Đại Nguyên phân đường tiến đến Biện Kinh, kinh thành giới nghiêm. Đêm hôm ấy đánh trống hai lần, Hợp Đạt và Bồ A dẫn quân quay về Đặng Châu. Quân Đại Nguyên theo gót phía sau, đoạt lấy hết xe truy trọng.

() Ở đây ghi là ngày 22, trong khi Ai Tông bản kỷ ghi là ngày 18 tháng 1 năm 1232

() Ở đây không rõ là đại tướng nào, phía Mông Cổ hay Kim. Vì đoạn số 8 nói đại tướng thống soái chúng (大將統之) nên không lẽ đây là đại tướng Mông Cổ. Quân Kim và quân Mông đang đánh nhau ác liệt sao lại có thể có chuyện đại tướng Mông đến xin rượu? Nhưng nếu không phải phía Mông Cổ thì ai là đại tướng nhà Kim ở đây? Hoàn Nhan Hợp Đạt và Di Lạt Bồ A là hai người có vị trí cao nhất trong quân Kim lúc bấy giờ, làm sao còn ai cao hơn?

10. 楊武至,知申、裕兩州已降。七日至夜,議北騎明日當複襲我,彼止騎三千,而我示以弱,將為所輕,當與之戰。乃伏騎五十于鄧州道。明日軍行,北騎襲之如故,金以萬人擁之而東,伏發,北兵南避。是日雨,宿竹林中。庚寅,頓安皋。辛卯,宿鴉路、魯山。河西軍已獻申、裕,擁老幼牛羊取鴉路,金軍適值之,奪其牛羊餉軍。

Dương Vũ đến, biết là hai châu Giáp và Dụ đã hàng. Ngày bảy đến ban đêm, nghị bàn Bắc kỵ ngày hôm sau có lẽ lại đánh úp ta, địch chỉ có ba nghìn, mà ta tỏ ra yếu thế, tất sẽ sinh lòng khinh thường, lúc ấy nên đánh chúng. Quân Bắc đặt mai phục năm mươi kỵ trên đường Đặng Châu. Ngày hôm sau hành quân, Bắc kỵ quả nhiên đánh úp, quân Kim lấy hai vạn người yểm vệ ở phía Đông, mai phục nổi lên, quân Bắc tránh sang phía Nam. Ngày hôm ấy mưa, đặt doanh trại trong rừng. Canh dần, đồn trú ở Nha Lộ và Lỗ Sơn. Quân Hà Tây (quân Mông Cổ) đã dâng già trẻ bò dê theo đường Nha Lộ, quân Kim gặp ngay chúng, đoạt lấy bò dê làm quân lương.

11. 癸巳,望鈞州,至沙河,北騎五千待于河北,金軍奪橋以過,北軍即西首斂避。金軍縱擊,北軍不戰,複南渡沙河。金軍欲盤營,北軍複渡河來襲。金軍不能得食,又不得休息。合昏,雨作,明旦變雪。北兵增及萬人,且行且戰,致黃榆店,望鈞州二十五裏,雨雪不能進,盤營三日。丙申,一近侍入軍中傳旨,集諸帥聽處分,制旨雲:「兩省軍悉赴京師,我禦門犒軍,換易禦馬,然後出戰未晚。」複有密旨雲:「近知張家灣透漏二三百騎,已遷衛、孟兩州,兩省當常切防備。」領旨訖,蒲阿拂袖而起,合達欲再議,蒲阿言:「止此而已,複何所議。」蓋已奪魄矣。軍即行。

Quý tỵ (4 tháng 2 năm 1232), đi về hướng Quân Châu, đến sông Sa Hà, quân Bắc năm nghìn chờ sẵn ở Hà Bắc, quân Kim đoạt lấy cầu mà qua sông, quân Bắc lập tức sang phía Tây tránh đi, quân Kim thả binh đánh, quân Bắc không chiến, lại vượt Sa Hà xuống Nam. Quân Kim muốn hạ doanh trại, quân Bắc lại vượt sông đánh quấy phá, quân Kim không thể yên ổn ăn uống, lại không được nghỉ nơi. Hoàng hôn, mưa xuống, ngày hôm sau thành tuyết. Quân Bắc tăng lên vạn người, vừa đi vừa đánh, đến Hoàng Du Điếm, cách Quân Châu hai mươi lăm lý, mưa tuyết không thể tiến. Quân Kim hạ doanh trại ba ngày. Bính thân, có một cận vệ vào trong quân truyền chỉ dụ, chư tướng đều tập hợp nghe chỉ, chiếu chỉ nói rằng: "Cả hai Hành Tỉnh nên đến Kinh Sư, ta ngự trên cửa khao quân, đổi ngựa rồi hãy xuất chiến cũng chưa muộn." Lại có mật chỉ nói: "Gần đây biết Trương Gia Loan trộm lấy hai ba trăm kỵ, đã dời đến hai châu Vệ, Mạnh, hai Hành Tỉnh nên phòng bị nghiêm ngặt." Lĩnh xong chiếu chỉ, Bồ A phủi tay đứng dậy, Hợp Đạt muốn bàn nghị, Bồ A nói: "Chỉ có bấy nhiêu thôi, lại cần bàn làm gì." Có lẽ đã sợ mất hồn. Quân lại hành quân tiếp.

12. 北軍自北渡者畢集,前後以大樹塞其軍路,沃衍軍奪路,得之。合達又議陳和尚先擁山上大勢,比再整頓,金軍已接竹林,去鈞州止十餘裏矣。金軍遂進,北軍果卻三峰之東北、西南。武、高前鋒擁其西南,楊、樊擁其東北,北兵俱卻,止有三峰之東。張惠、按得林立山上望北兵二三十萬,約厚二十裏。按得木與張惠謀曰:「此地不戰,欲何為耶?」乃率騎兵萬餘乘上而下擁之,北兵卻。須臾雪大作,白霧蔽空,人不相覿。時雪已三日,戰地多麻田,往往耕四五過,人馬所踐泥淖沒脛。軍士被甲骨僵立雪中,槍槊結凍如椽,軍士有不食至三日者。北兵與河北軍合,四週邊之,熾薪燔牛羊肉,更遞休息。乘金困憊,乃開鈞州路縱之走,而以生軍夾擊之。金軍遂潰,聲如崩山,忽天氣開霽,日光皎然,金軍無一人得逃者。

Quân Bắc từ phía Bắc vượt sông xong rồi tập hợp binh lực, trước sau dùng cây lớn ngăn đường tiến quân. Quân Dương Ốc Diễn đoạt lấy đường đi, đoạt được. Hợp Đạt lại nghị với Trần Hòa Thượng xem xét địa hình trên núi, không lâu sau lại chỉnh đốn quân ngũ. Quân Kim đã tiếp giáp Trúc Lâm, cách Quân Châu chỉ hơn mười lý. Quân Kim bèn tiến, quân Bắc quả nhiên lui đến phía bắc và tây nam núi Tam Phong. Tiền phong của Võ Tiên, Cao Anh đánh úp mạn tây nam, Dương Ốc Diễn (), Phàn Trạch yểm tập ở đông bắc, quân Bắc hết thảy rút lui, chỉ còn quân ở phía đông Tam Phong. Trương Huệ, Án Đắc Mộc đứng trên núi nhìn thấy quân Bắc hai ba mươi vạn, ước định đóng dày đặc hai mươi lý. Án Đắc Mộc cùng Trương Huệ mưu rằng: "Trận địa này không chiến, còn muốn làm thế nào?" Bèn soái kỵ binh vạn người lên núi đánh từ trên xuống, quân Bắc rút lui. Chốc sau, tuyết lớn rơi, sương mốc trắng phau bao trùm bầu không khí, người người không nhìn thấy nhau. Bấy giờ tuyết rơi đã ba ngày, chiến địa đa phần là ruộng mè, thường được cày cấy bốn năm lần, những nơi người ngựa đạp lên đều ngập trong bùn đến đầu gối. Quân sỹ mang giáp trụ đứng như xác chết trong tuyết, thương giáo đều đóng băng như gậy gỗ, quân sỹ có kẻ không ăn đã ba ngày. Quân Bắc cùng quân từ Hà Bắc hợp lại, tứ phía vây chúng, đốt củi nấu thịt bò dê, thay phiên nhau nghỉ ngơi. Thừa lúc quân Kim mỏi mệt rả rời, bèn mở một đường đi về Quân Châu thả cho tháo chạy, lại dùng quân còn khỏe kẹp đánh chúng. Quân Kim tan vỡ, tiếng thét lớn như núi đổ, bất chợt trời tạnh tuyết ngưng rơi, ánh nắng soi sáng, quân Kim không một kẻ nào thoát được.

() Kim Sử chỉ ghi là Dương, không biết là Dương Ốc Diễn hay Dương Võ. Theo như các đoạn văn phía sau thì ắt phải là Dương Ốc Diễn.

Kim Sử, quyển 16, Ai Tông Bản Kỷ, quyển thượng:

天興元年,是年本正大九年,正月改元開興,四月又改元天興。春正月壬午朔,日有兩珥。大元兵道唐州,元帥完顏兩婁室與戰襄城之汝墳,敗績。兩婁室走汴京。遣完顏麻斤出等部民丁萬人,決河水衛京城。癸未,置尚書省、樞密院于宮中,以便召問。起前元帥古裏甲石倫權昌武軍節度使,行元帥府事。合達、蒲阿引軍自鄧州赴汴京。乙酉,以點檢夾穀撒合為總帥,將步騎三萬巡河渡,權近侍局使徒單長樂監其軍。起近京諸色軍家屬五十萬口入京。丙戌,大元兵既定河中,由河清縣白坡渡河。丁亥,長樂、撒合引兵至封丘而還。戊子,左司郎中斜卯愛實上書請斬長樂、撒合以肅軍政,不從。都尉烏林答胡土一軍自潼關入援,至偃師,聞大元兵渡河,遂走登封少室山。壬辰,衛州節度使完顏斜撚阿不棄城走汴。甲午,修京城樓櫓及守禦備。大元兵薄鄭州,與白坡兵合,屯軍元帥馬伯堅以城降,防禦使烏林答咬住死之。乙未,大元遊騎至汴城。丁酉,大雪。大元兵及兩省軍戰鈞州之三峰山,兩省軍大潰,合達、陳和尚、楊沃衍走鈞州,城破皆死之。樞密副使蒲阿就執,尋亦死。武仙走密縣。自是,兵不復振己亥,徐州行省完顏慶山奴引兵入援,義勝軍校侯進、杜正、張興率所部北降,慶山奴入睢州。庚子,禦端門肆赦,改元開興。辛丑,潼關守將李平以關降大元。壬寅,扶溝民錢大亨、李鈞叛,殺縣令王浩及其簿尉。庚戌,許州軍變,殺元帥古裏甲石倫、粘合仝周、蘇椿等,以城降大元。

Thiên Hưng năm thứ nhất, năm này vốn là năm thứ chín Chính Đại, tháng giêng cải nguyên thành niên hiệu Khai Hưng, tháng tư lại cải nguyên thành Thiên Hưng. Mùa xuân tháng giêng, nhâm ngọ mùng một (24 tháng 1 năm 1232), mặt trời có hai vòng sáng. Quân Đại Nguyên theo đường Đường Châu, Nguyên Soài Hoàn Nhan Lưỡng Lâu Thất cùng chúng chiến ở Nhữ Phần thuộc Tương Thành, thất bại, Lưỡng Lâu Thất chạy về Biện Kinh. Sai Hoàn Nhan Ma Cân xuất các bộ dân đinh vạn người, tháo nước sông Hoàng Hà bảo vệ kinh thành. Quý mùi (25 tháng 1 năm 1232), đặt Thượng Thư Tỉnh, Khu Mật Viện ở trong cung, để tiện cho vời lại. Cho Nguyên Soái Cổ Lí Giáp Thạch Luân tạm làm Võ Xương Quân Tiết Độ Sứ,  Hành Nguyên Sư Phủ Sự. Hợp Đạt và Bồ A dẫn quân từ Đặng Châu quay về Biện Kinh. Ất dậu (27 tháng 1 năm 1232), cho Điểm Kiểm Giáp Cốc Tát Hợp làm Tổng Soái,  chỉ huy bộ kỵ ba vạn tuần tra cửa khâu sông Hoàng Hà. Quyền Cận Thị Cục Sứ Đồ Đan Trường Lạc giám sát quân ấy. Cho gia thuộc các loại quân năm mươi vạn người vào trong kinh thành. Bính tuất (28 tháng 1 năm 1232), quân Đại Nguyên đã bình định Hà Trung, từ Bạch Đê huyện Thanh Huyện vượt sông. Đinh hợi (29 tháng 1 năm 1232), Đồ Đan Trường Lạc và Giáp Cốc Tát Hợp dẫn quân đến Phong Khâu rồi về. Mậu tí (30 tháng 1 năm 1232), Tả Ti Lương Trung Già Mảo Ái Thực dâng thư xin chém Trường Lạc và Tát Hợp để xiết chặt quân kỷ, không theo. Đô Úy Ô Lâm Đáp Hồ Thổ dẫn một đạo quân từ Đồng Quan đến cứu viện, đến Yển Sư, nghe quân Đại Nguyên đã vượt sông, bèn chạy về núi Đăng Phong Thiểu Thất Sơn. Nhâm thìn (3 tháng 2 năm 1232), Vệ Châu Tiết Độ Sứ Hoàn Nhan Tà Niên A Bất bỏ thành chạy về Biện Kinh. Giáp Ngọ (5 tháng 2 năm 1232), tu sửa kinh thành và lầu tháp để phòng ngự. Quân Đại Nguyên đến sát Trịnh Châu, hợp quân cùng với quân ở Bạch Pha. Đồn Quân Nguyên Sư Mã Bá Kiên đem thành đầu hàng, Phòng Ngự Sứ Ô Lâm Đáp Giảo Trụ giết hắn. Ất mùi (6 tháng 2 năm 1232), du kỵ Đại Nguyên đến Biện Kinh. Đinh dậu (8 tháng 2 năm 1232), tuyết lớn. Quân Đại Nguyên cùng hai Hành Tỉnh (tức Bồ A và Hợp Đạt) chiến ở núi Tam Phong gần Quân Châu, hai Hành Tỉnh đại bại, quân tan vỡ lớn. Hợp Đạt, Trần Hòa Thượng, Dương Ốc Diễn chạy vào Quân Châu. Thành bị phá, đều chết ở đấy. Khu Mật Viện Phó Sứ Di Lạt Bồ A bị bắt, sau đó ít lâu cũng chết. (Hằng Sơn Công) Võ Tiên chạy vào huyện Mi. Tự đó thế quân không lên nổi nữa. Kỷ hợi (10 tháng 2 năm 1232), Từ Châu Hành Tỉnh Hoàn Nhan Khánh Sơn Nô dẫn binh về cứu, Nghị Thắng Quân Giáo Hầu Tiến, Đỗ Chinh, Trương Hưng suất lĩnh bộ hạ ra bắc đầu hàng, quân Khánh Sơn Nô vào Tuy Châu. Canh tý (11 tháng 2 năm 1232), (hoàng thượng Ai Tông) ngự trên Đoan Môn đại xá, cải nguyên (đổi niên hiệu) là Khai Hưng. Tân sửu (12 tháng 2 năm 1232), Đồng Quan Thủ Tướng Lý Bình lấy cừa quan hàng quân Nguyên. Nhâm dần (12 tháng 2 năm 1232), thủ lĩnh dân Phù Câu là Tiền Đại Hanh và Lý Quân phản, giết Huyện Lệnh là Vương Hạo và quan Bộ Úy của y. Canh tuất (21 tháng 2 năm 1232), binh biến Hứa Châu, giết bọn Nguyên Soái Cổ Lý Giáp Thạch Luân, Niêm Hợp Đồng Châu, Tô Xuân, lấy thành hàng Đại Nguyên.

Đại Kim Quốc Chí quyển hai mươi sáu còn lưu giữ một ít thông tin về trận Tam Phong. Xét mặt văn tự thì thấy nó phải là sử liệu của chính phía Kim được sao lưu vào sách này. Quân Mông Cổ không được gọi là "Đại Nguyên binh", mà chỉ được gọi là Mông Cổ. 

Đại Kim Quốc Chí, quyển 26 ghi:

帝遣人約南宋夾攻,時陳垓按宋史作陳晐為襄帥不敢應。㑹天大雨雪三日三夜,我兵僵仆,䝉古軍益張,又報䝉古大軍突入潼闗,方此皇惑,而徐州防河兵少。䝉古軍有徑渡者,我軍洶懼不能軍,遂敗績。樞密使伊喇蒲阿出降,按金史:伊喇蒲阿傳蒲阿走京師,元兵追及,擒之,械至官山不降,見殺,大抵此書於章宗以後所載尤多,謬妄如褔興之慷慨自裁,而以為奔汴蒲阿之被禽不屈,而以為降元非出於傳,聞之誤即出於愛憎之私事闗名節,尤不可以不辨云,諸將如哈逹、髙英、楊烏林、樊澤等皆戰死,擉武仙逃奔留山。䝉古別軍自山東至下邳,入歸徳,而大軍自衛州過河,㑹於楊霍,潼闗失守。按金史鈞州之敗在天興元年,正月,丁酉日,《歸潜志》云正月十六日

Hoàng đế sai người ước với Nam Tống đánh kẹp, bấy giờ Trần Cai (陳垓) (Sử gọi là Trần Cai (陳晐)) làm tướng soái thủ Tương Dương. Bấy giờ trời đổ tuyết lớn ba ngày ba đêm, quân ta đông cứng ngãy quỵ, quân Mông Cổ ngày một tăng thêm, lại có tin báo đại quân Mông Cổ đột nhập vào Đồng Quan, mới vì việc ấy hoảng loạn, mà quân Từ Châu phòng vệ Hoàng Hà ít binh, quân Mông Cổ có kẻ vượt sông, quân ta khủng hoảng không thể tác chiến, liền thất bại. Khu Mật Sứ Y Lạt Bồ A (Di Lạt Bồ A) ra hàng. Xét Kim Sử, Y Lạt Bồ A tức Di Lạt Bồ A chạy về kinh sư, quân Nguyên truy kịp, bị bắt, giải tới Quan Sơn, bị giết. Đại để sách này từ sau đời Kim Chương Tông ghi rất nhiều, sai lầm như nói ý chí khảng khái của Phúc Hưng (?) mà tự vận, Bồ A bỏ chạy về Biện Kinh bị bắt rồi bất khuất (chết), mà cho rằng việc y hàng Nguyên e không tới từ phần truyện của y. Được biết sai sót này tới từ việc yêu ghét riêng liên quan đến danh tiết, không thể không bàn tới. Chư tướng như Hợp Đạt, Cao Anh, Dương Ngô Lâm (tức Dương Ốc Diễn), Phàn Trạch đều tử chiến, Đồng Quan thất thủ. Xét Kim Sử thì thấy Quân Châu thất thủ vào năm đầu Thiên Hưng, tháng giêng, ngày đinh dậu (8 tháng 2 năm 1232). Sách Quy Tiềm Chí nói tháng giêng ngày hai mươi sáu.

Sách Quy Tiềm Chí quyển 11 ghi:

翌日,報聞十六日鈞台與北兵酣戰,會天大雪沒膝,我師皆凍不能支,轉戰良久,北兵後自孟津南渡,與南來諸兵會,我師遂大敗,移剌蒲瓦被擒,完顏合打竄於地穴中,為所發見殺。都尉苗英、高英、樊澤,郎將完顏陳和尚諸驍將皆死。京師大震,下詔罪己,改元開興。

Ngày hôm sau, có tin báo ngày hai mươi sáu (18 tháng 2 năm 1232) quân ở Quân Đài (tức Quân Châu) cùng quân Bắc đánh nhau ác liệt, bấy giờ trời tuyết quá đầu gối, quân ta đều bị đông cứng không thể đối phó, chuyển chiến hồi lâu, quân Bắc sau lại từ bến Mạnh Tân vượt sông xuống Nam, cùng với chư binh tới từ phía Nam hội quân, quân ta bèn đại bại. Di Lạt Bồ Ngõa bị bắt, Hoàn Nhan Hợp Đạt trốn trong hang đất, bị phát hiện mà bị giết. Đô Úy Miêu Anh, Cao Anh, Phàn Trạch, Lang Tướng Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng cùng chư kiêu tướng đều chết. Kinh sư chấn động, hạ chiếu đại xá tha tội, cải nguyên thành Khai Hưng.

13. 武仙率三十騎入竹林中,楊、樊、張三軍爭路,北兵圍之數重,及高英殘兵共戰于柿林村南,沃衍、澤、英皆死,惟張惠步持大槍奮戰而歿。蒲阿走京師,未至,追及,擒之。七月,械至官山,召問降否,往復數百言,但曰:「我金國大臣,惟當金國境內死耳。」遂見殺。

Võ Tiên lĩnh ba mươi kỵ chạy vào Trúc Lâm, Dương, Phàn Trạch ba quân tranh đường (mà tháo chạy), quân Bắc vây chúng thành mấy vòng, cùng tàn binh của Cao Anh chiến ở phía nam thôn Thị Lâm, Dương Ốc Diễn, Phàn Trạch, Cao Anh đều chết, duy có Trương Huệ đi bộ cầm đại thương phấn khích chiến đấu mà chết. Bồ A chạy về kinh sư, chưa tới đã bị (quân Mông) đuổi kịp, bắt hắn. Tháng bảy, áp giải đến Quan Sơn, cho vời lại hỏi có muốn hàng hay không, hỏi đi hỏi lại trăm lần, Bồ A chỉ nói: "Ta là đại thần nước Kim, chỉ nên chết trong cảnh giới nước Kim mà thôi." bèn giết hắn.

14. 贊曰:金自南渡,用兵克捷之功,史不絕書,然而地不加辟,殺傷相當,君子疑之。異時伐宋,唐州之役,喪師七百,主將訛論匿之,而以捷聞。禦史納蘭糾之,宣宗獎禦史,而不罪訛論,是君臣相率而為虛聲也。禹山之捷,兩省為欺,遂致誤國,豈非宣宗前事有以啟之耶?至於三峰山之敗,不可收拾,上下暿咢眙,而金事已去十九。天朝取道襄、漢,懸軍深入,機權若神,又獲天助,用能犯兵家之所忌,以建萬世之俊功,合達雖良將,何足以當之。蒲阿無謀,獨以一死無愧,猶足取焉爾。

Tán rằng: Kim từ khi nam độ, chiến tích dụng binh sử chép không hết, nhưng lãnh thổ lại không mở rộng, sát thương ngang nhau, bậc quân tử do vậy nghi ngờ (các sử sách như thế). Lúc trước phạt Tống, trong trận Đường Châu, quân mất bảy trăm người, chủ tướng Ngoa Luận giấu đi, lại tiệp báo (báo thắng). Ngự Sử Nạp Lan đàn hặc hắn, Tuyên Tông khen ngợi Ngự Sử, nhưng vẫn không phạt tội Ngoa Luận, như vậy quân thần nối nhau canh danh hư vậy. Chiến thắng ở Vũ Sơn, hai Hành Tỉnh sinh kiêu ngạo, dẫn đến chỗ làm thất cơ quốc sự, há không phải khởi nguồn từ việc trước kia của Tuyên Tông đó sao? Đến như thất bại ở Tam Phong, không thể xoay chuyển được, trên dưới kinh ngạc, mà đại sự nước Kim mười phần thì đi hết chín phần rồi. Thiên triều (tức nhà Nguyên-Mông) theo đường Tương, Hán, Huyền thâm nhập, nắm bắt thời cơ như thần, lại được trời giúp, dụng binh có thể phạm vào điều cấm kỵ của binh gia mà kiến lập công tích vạn thế. Hợp Đạt tuy là lương tướng, làm sao đủ để đương địch lại đây. Bồ A vô mưu, chỉ có mỗi cái chết là không thẹn với đời, cũng chỉ khen được ở đó thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

HISTORY OF YUAN: BIOGRAPHY OF URYANGQADAI (CHAPTER 412): A TRANSLATION AND ANNOTATION (宋史孟珙傳注譯(卷412)注譯)

  1.   兀良合台,初事太祖。時憲宗為皇孫,尚幼,以兀良合台世為功臣家,使護育之。憲宗在潛邸,遂分掌宿衞。歲(乙)〔癸〕巳,[5]領兵從定宗征女真國,破萬奴於遼東。繼從諸王拔都征欽察、兀魯思、阿〔速〕、孛烈兒諸部。[6]丙午,又從拔都討孛烈兒乃、捏迷思部,平之。己酉,定宗崩。...