Thứ Năm, 28 tháng 5, 2020

(BOOK REVIEW) BÌNH LUẬN SÁCH: LÝ THƯỜNG KIỆT: LỊCH SỬ BANG GIAO VÀ TÔNG GIÁO TRIỀU LÝ (黃春瀚的《李常傑:李朝的邦交與宗教歷史》評論


Hoàng Xuân Hãn tiên sinh với cuốn "La Sơn Phu Tử" trên tay

Giới thiệu về tác giả:

Hoàng Xuân Hãn (黃春瀚) tiên sinh sinh năm 1908 ở làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tiên sinh học chữ Hán và chữ Quốc Ngữ từ nhỏ tại gia. Hoàng tiên sinh thi đậu Thành Chung năm 1926, về sau tiên sinh chuyển sang nghiên cứu Toán học tại trường Albert Sarrault. Năm 1930, tiên sinh lại thi đỗ vào trường đại học danh giá nước Pháp là École Normale Supérieure và trường École Polytechnique ở Paris, là những trường tuyển sinh rất ngặt nghèo. Nhiều học sinh ưu tú từ trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội mà người viết quen biết cũng theo học hai trường này. Được tuyển vao 2 trường này không phải dễ dàng, vì ở cái thời thuộc địa thì thân phận một người Annamite không được xem trọng. Cùng thời với ông, chắc chỉ có mỗi luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) là có thể sánh ngang tiên sinh. Hoàng tiên sinh tỏ ra là một người giỏi cả khoa học tự nhiên và nhân văn xã hội. Ông để lại nhiều trước tác lịch sử nổi tiếng như cuốn "Lý Thường Kiệt" và "La Sơn Phu Tử". Đối với lĩnh vực Toán học, ông cho xuất bản cuốn "Éléments de trigonométrie" (Cơ sở lượng giác) và "Vocabulaire Scientique" (Từ vựng khoa học). Ông là một nhà bác học và sử học lớn của Việt Nam.

Để hiểu hơn về tiên sinh, có thể đọc thêm bài phỏng vấn này giữa tiên sinh và Thụy Khê: http://thuykhue.free.fr/hxh/hxhhxh.html

Phiên bản mà người viết sở hữu:

Bản mà gửi viết sở hữu là bản năm 2018 được in bởi Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội và nhà sách Khai Tâm. Bản in sáng sủa, chữ nghĩa rõ ràng, ở phía sau sách còn có bảng tên đất và tên người, rất tiện tra cứu, gần giống như mục Index trong sách tiếng Anh.

Hoàn cảnh xã hội và chính trị khi tiên sinh viết sách:

Hoàng tiên sinh cho xuất bản sách này lần đầu tiên năm 1949, được in bởi nhà xuất bản Sông Nhị, Hà Nội. Đây là giai đoạn mà Việt Nam đang tranh đấu để thoát khỏi đế quốc Pháp. Năm 1949 cũng là năm mà kháng chiến đang diễn ra cam go, chính phủ lâm thời của Hồ Chủ Tịch chưa nhận được viện trợ quân sự của Trung Quốc và Liên Xô nên tình thế quân sự phe ta vẫn rất khó khăn gian khổ. Nhưng giai đoạn này cũng là giai đoạn khiến tiên sinh có thể viết sách một cách khách quan và ít chịu ảnh hưởng của ngành sử học theo chủ nghĩa Marxism và chủ nghĩa dân tộc (Nationalism). Điều này là do chính phủ lâm thời chưa dựa theo mô hình XHCN của Liên Xô và Trung Quốc áp đặt lên Việt Nam, nên không khí học thuật có phần cởi mở hơn, sử gia có thể viết sách mà không sợ sự quản thúc và kiểm duyệt gắt gao của chính phủ.

1) Sử liệu

a) Sử liệu Việt Nam

Sử liệu mà Hoàng tiên sinh sử dụng để viết cuốn "Lý Thường Kiệt" bao gồm tư liệu Việt Nam và tư liệu Trung Quốc. Ở mục tư liệu Việt Nam, tiên sinh sử dụng nhiều nhất Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, vốn đã quen thuộc với người đọc, và đặc biệt là quyển Đại Việt Sử Lược (hay Việt Sử Lược), một quyển sử thác danh được cho là soạn vào đầu đời Trần. Tiên sinh đã nói "chép chuyện Tống kỹ càng, chuyện Lý đơn sơ" (trang 11). Ông nói đấy là lỗi của dân tộc ta, vì cha ông hoặc ít ghi chép tỉ mỉ sự kiện, hoặc không biết giữ gìn vết tích xưa. Tình trạng của tiên sinh cũng tương tự như Hà Văn Tấn tiên sinh khi biên soạn cuốn  “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông-Nguyên thế kỷ XIII”.

Ngoài 2 tài liệu trên, Hoàng tiên sinh còn dùng thêm sách Việt Điện U Linh và Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục,

Đáng kể nhất phải nói tới 6 tấm bia khắc mà tiên sinh góp phần phát hiện, cung cấp thêm nhiều thông tin quý giá về cuộc đời của Lý Thường Kiệt.

1. Bia chùa Bảo Ân, tạc năm 1100
2. Bia chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh, soạn năm, tạc năm 1110
3. Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, tạc năm 1121
4. Bia chùa Hương Nghiêm, tạc năm 1124
5. Bia chùa Linh Xứng, tạc năm 1126
6. Bia chùa Ngọ Xá, dựng trễ nhất trong các bia, năm 1876.

Thật đáng tiếc là tiên sinh đã không kèm toàn bộ phần gốc chữ Hán của các văn bia này cùng bài dịch. Nhưng đòi hỏi như thế e là quá đáng, vì nhà xuất bản phải hạn định số lượng trang in sao cho đỡ tốn kém nhất và khiến giá thành đầu ra vừa túi người đọc.

b) Sử liệu Trung Quốc

Các tài liệu Trung Quốc mà tiên sinh sử dụng là:

1) Tiếp Tư Trị Thông Giám Trường Biên (續資治通鑑長編): Đây là một bộ sử sách đồ sộ biên soạn bởi nhà sử học Lý Đảo (李焘) (1115-1184). Không có nghi ngờ gì, đây là một tuyệt tác của lịch sử Trung Hoa. Lý Đảo đã dành 40 năm cuộc đời để biên soạn quyển sách này. Toàn sách có tới 980 quyển, hiện còn 520 quyển. Hoàng tiên sinh đã trích nhiều chiếu thư, hội thoại, các bài văn của các nhân vật chính trị chủ chốt nhà Tống như Tư Mã Quang, Vương An Thạch,...Ngay cả bài Chinh Nam Tông Nhất Văn Tự của Quách Quỳ cũng được giữ gìn ở đây. Đây là nguồn sử liệu chính của tiên sinh.

2) Tống sử (宋史) là một trong 24 chính sử của Trung Quốc, soạn vào đời Nguyên. Như tiên sinh nhận xét, phần Bản Kỷ chỉ cho biết một ít việc liên quan bang giao và chiến tranh Tống-Lý, phần liệt truyện cung cấp nhiều thông tin hơn. Tiên sinh cũng nhận xét phần Giao Chỉ Truyện rằng "có lẽ người Tống đọc đoạn này, cho là nhục quốc thể mà xé đi chăng." Nhưng tiên sinh không chỉ ra rõ là đoạn nào mà bị khuyết mất như thế.

3) Các sách khác như Đông Đô Sự Lược của Vương Xưng, Tốc Thủy Kỷ Văn của Tư Mã Quang, Nhị Trình Di Thư của anh em họ Trình, Chu Tử Ngữ Lục, Tống Hội Yếu...Đây đều là những tài liệu quý, và công sức tiên sinh bỏ ra sưu tầm thu thập hết sức đáng khâm phục, đặc biệt trong thời đại chưa có internet và các thư tịch cũ chưa được số hóa trên wikisource hay ctext.

Phương pháp nghiên cứu sử:

Tính khách quan:

Phương châm nghiên cứu sử của Hoàng tiên sinh là: "Không bịa đặt, không tây vị, hết sức rõ ràng, đó là những chuẩn thằng (đây là 1 từ cổ, khá ngạc nhiên vẫn còn dùng lúc tiên sinh viết sách này. Từ này chữ Hán là 準繩, nghĩa gốc là thước đo và dây rọi, sau diễn giải thành tiêu chí) tôi đã theo" (trang 11). Cuốn sách đã đi đúng với phương châm này. Trong sách tuyệt không thấy tiên sinh dùng những từ ngữ nặng nề để miệt thị chính quyền và quan lại nhà Tống. Tiên sinh gọi Tống Thần Tông là ông vua "có chí quật cường" (trang 102), gọi Vương An Thạch là "cao tài kinh tế" (trang 102). Ta thấy tiên sinh khách quan hơn so với Hà Văn Tấn tiên sinh trong việc đánh giá đối phương.

Cấu trúc của sách:

1) Chính sách đối ngoại với Lý triều trước khi Lý Thường Kiệt sang đánh Tống:

Nhìn tổng thể, theo đánh giá của người viết, phần lớn cuốn sách liên quan đến lịch sử chiến tranh và ngoại giao Tống-Lý. Trong đó bao gồm chiến dịch đánh Tống trước của Lý Thường Kiệt và chiến dịch Tống phản công Lý. Mối quan hệ Tống-Lý được Hoàng tiên sinh phân tích kỹ lưỡng qua việc khảo xét các phương sách không phải chỉ của riêng Vương An Thạch, mà còn ở các viên quan coi giữ biên thùy như chính sách hòa hoãn của Tiêu Chú, chính sách khiêu khích gây chiến của Thẩm Khỉ, và rốt cuộc là chính sách do dự của vua tôi Tống Thần Tông và Vương An Thạch.


Hoàng tiên sinh cũng tin rằng trước khi Lý Thường Kiệt cất quân phạt Tống, vua tôi Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã nung nấu kế hoạch xâm chiếm An Nam-Giao Chỉ. Hãy điểm qua các dẫn chứng của tiên sinh. 

Hoàng tiên sinh dẫn Tống sử, quyển 334, Tiêu Chú truyện:

Nguyên văn là:

入覲,神宗問攻取之策,對曰:「昔者臣有是言,是時溪洞之兵,一可當十;器甲堅利,親信之人皆可指呼而使。今兩者不如昔,交人生聚教訓十五年矣,謂之『兵不滿萬』,妄也。」

Vào chầu, Thần Tông hỏi sách lược công chiếm, (Chú) đáp: "Xưa thần có nói lời ấy, bây giờ quân binh khê động, một có thể chọi mười, khí giáp kiên cứng sắc bén, người thân tín đều có thể chỉ tay hô lệnh mà điều khiển. Nay hai điều ấy không như trước, người Giao sinh tụ (tức tăng dân số nhân khẩu) giáo huấn đã mươi lăm rồi, nói rằng "binh không đầy vạn", là sai."

Đây là bản dịch của người viết, bản dịch của tiên sinh ở trang 109. 

Lời nói này của Tiêu Chú cũng được ghi trong Tiếp Tục Trị Thông Giám Trường Biên quyển 219:

會有言交趾為占城所敗,觽不滿萬,可計日取也。

Bấy giờ (Chú) có nói Giao Chỉ bị Chiêm Thành đánh bại, quân không đầy vạn, có thể tính kế chiếm lấy.

Quyết tâm đánh Giao Châu cũng thể hiện qua lời của Thẩm Khởi (Hoàng tiên sinh ghi là Thẩm Khỉ), Tiếp Tục Trị Thông Giám Trường Biên quyển 242:

會起言交州小醜無不可取之理

Bấy giờ Khởi nói Giao Châu nhỏ mọn không có lý gì không lấy được.

Một dẫn chứng khác của tiên sinh là lời nói của Vương An Thạch với Tống Thần Tông:

安石曰:「譬如乾德初立時,用二萬精兵足了,以中國之觽,募二萬人精兵,豈患無之?擇五七中材將帥,亦豈患無之?一舉滅交趾,則威立矣。以嘗勝之觽布之陝西,則陝西之兵人人有勝氣,以其氣臨夏國,不足吞也。吞夏國則中國之氣孰敢干撓。」

An-Thạch trả lời :"Lúc Càn-Đức mới lập, ta chỉ cần hai vạn tinh binh là xong việc. Ở Trung-quốc, há lại không thể mộ được hai vạn quân giỏi, năm bảy tướng vừa hay sao? Lúc quân ta diệt được Giao-chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ta bá-cáo cho Thiểm-tây biết, quân dân Thiểm-tây sẽ thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được Hạ, thì ai dám quấy nhiễu Trung-quốc nữa" (Nhật-lục, TB 276/2a, 2b và 3a).

Trích bài dịch của tiên sinh trang 105. Điều này được ghi trong Trường Biên quyển 276, tức năm 1076.

Còn một lời nữa, mà theo Hoàng tiên sinh là của Vương An Thạch:

「若勝,則宋勢增,遼夏諸國定生敬畏」。

Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể.
Lời này được ghi ở trang 105, nhưng không thấy tiên sinh chú ở nguồn sử liệu nào.

Đây là các dẫn chứng mà tiên sinh đưa ra cho việc Tống định đánh ta trước khi Lý Thường Kiệt sang phạt Tống.

2) Chiến dịch phạt Tống của Lý Thường Kiệt

Phương pháp tái dựng quá trình chiến tranh của Lý Thường Kiệt là phương pháp viết theo trình tự thời gian (chronological order). Các Liêm và Khâm Châu được Hoàng tiên sinh thuật lại dựa trên Tống Sử, Trường Biên, Toàn Thư và Đại Việt Sử Lược. Tư liệu ít ỏi nên việc phục dựng gặp khó khăn. Tuy nhiên, trung tâm của chiến dịch này chính là trận vây thành Ung Châu. Thái Úy Tô Giàm đã dùng nhiều mưu kế để tiến hành phòng thủ thành, khiến cho quân Lý vây thành 40 ngày mới phá được. Hoàng tiên sinh nói rằng: "sách Tống đã tìm mọi cách để giảm võ công ta, như nói có người Tống bày mưu kế hay chiến thuật" (trang 133). Người viết cho rằng không phải vậy. Việc quân Việt không thiện công thủ thành là một sự thật lịch sử. Người Tống do phải chống chọi với quân Liêu, Hạ, vốn lấy kỵ binh làm chủ lực, đã phải phát triển các phương pháp thủ thành để tiến hành đề kháng quân kỵ. Việc xây dựng và củng cố thành lũy giúp nhà Tống tổ chức phòng thủ tốt hơn, và tránh phải giao chiến trên đồng không mông quạnh, là nơi sở trường của Liêu, Hạ được phát huy triệt để. Về phía Việt, quân ta chủ yếu dựa vào thủy chiến, dùng thuyền bè làm phương tiện tiến và lui quân, không cậy vào thành quách như Tống nên các phép công thủ thành đương nhiên không bằng Tống. Đấy là một sự thật khách quan.

3) Chiến dịch Nam phạt của Tống

Hoàng tiên sinh đã nghiên cứu kỹ các sử liệu để xác định quân số và lượng lương thực cần để nuôi quân. Quân Tống Nam phạt có khoảng 100,000 quân và 10,000 ngựa. Bấy nhiêu quân cần 400,000 dân phu tải lương để cung cấp lương thực trong chỉ 1 tháng. (trang 106). Đây là khó khăn lớn nhất, vì nếu Tống không thể đánh thắng ta một trận quyết định, thì cầu cưa lâu trên đất ta sẽ khiến việc cung cấp lương thực thêm khó khăn.

Điều thứ hai ta thấy tiên sinh đã thành công làm đó là khắc họa được tính cách của một số viên tướng chỉ huy quân Tống. Quách Quỳ thể hiện là một người rụt rè, cẩn trọng, không liều lĩnh. Miêu Lý là một tướng bạo gan, từng đưa quân chọc thủng phòng tuyến quân Lý và tiến lên chỉ cách kinh đô Thanh Long 15 dặm. Vương Tiến là kẻ nhát gan, thấy quân ta chặn Miêu Lý thì sợ ta dùng cầu phao mà họ đã dựng qua sông lên bờ Bắc, bèn lệnh cắt cầu phao, khiến chọ hậu và tiền quân Tống không tiếp cứu được nhau. Nhìn chung, ta thấy các tướng đánh ta không phải là những hùng tướng đầy mưu lược. Tính cách của Quách Quỳ là đặc trưng của võ tướng nhà Tống. Khảo sát sử liệu chiến tranh Tống-Liêu, Tống-Hạ, ta thấy phần nhiều tướng Tống cũng rụt rè, chỉ lấy thủ làm trọng. Đó là vì Bắc cương của Tống toàn các nước có nhiều kỵ binh, còn quân Tống đa phần bộ binh, quân địch rút nếu bất lợi, tiến nếu thắng lợi, còn quân Tống chậm chạp, thắng truy không kịp, thua chạy khó thoát. Điều đó khiến tướng Tống hay dặt dè, sợ sệt. Quỳ cũng từng là tướng coi Bắc thùy, nên nhiễm tính ấy.

Đọc các trang đoạn làm ta chua xót cho Tống nhất là đoạn Quách Quỳ cho Tống đóng bè rất lớn, chở được 500 quân, tiến sang bờ Nam. Quân Lý đã làm hàng rào tre nứa nhiều lớp, Tống sang bờ ra sức chặt bẽ đốt bỏ, nhưng dày quá không làm nổi, muốn rút thì bè đã rời bến sang bờ Bắc chở quân tiếp viện sang tiếp, nên tiến không được mà lui cũng không xong, rốt cuộc bị quân Lý đánh giết bắt sống. Đây là dựa vào sách Nhị Trình Di Thư (trang 203)

4) Đạo Phật thời Lý

Sách của tiên sinh không những là một sách lịch sử quân sự, cũng không hẳn là sách tiểu sử của Lý Thường Kiệt, mà còn là một sách nghiên cứu đạo Phật thời Lý. Lý Thường Kiệt tuy là võ tướng nhưng rất chuộng đạo Phật, từng che chở cho nhiều sư tăng. Có một điều đáng tiếc là tiên sinh không bàn đến xung đột tư tưởng giữa một bên là đạo Phật ngăn cấm giết chọc và một bên là chiến tranh. Lý Thường Kiệt đã dung hòa tư tưởng này thế nào?

Nghi vấn về việc Tống chủ tâm đánh ta trước khi Lý Thường Kiệt phạt Tống:

Sau khi đọc sách này, người viết cảm thấy còn tồn nghi những bằng chứng cho thấy Tống có ý chiếm lấy Giao Chỉ trước khi Lý Thường Kiệt công phạt 3 châu Khâm, Liêm, Ung. Hãy điểm lại những bằng chứng trong thư tịch nhà Tống về "âm mưu" này. Như ở trên đã trích dẫn, dưới đây xin trích lại:

Hiến kế đánh ta có Tiêu Chú:

入覲,神宗問攻取之策,對曰:「昔者臣有是言,是時溪洞之兵,一可當十;器甲堅利,親信之人皆可指呼而使。今兩者不如昔,交人生聚教訓十五年矣,謂之『兵不滿萬』,妄也。」

Vào chầu, Thần Tông hỏi sách lược công chiếm, (Chú) đáp: "Xưa thần có nói lời ấy, bây giờ quân binh khê động, một có thể chọi mười, khí giáp kiên cứng sắc bén, người thân tín đều có thể chỉ tay hô lệnh mà điều khiển. Nay hai điều ấy không như trước, người Giao sinh tụ (tức tăng dân số nhân khẩu) giáo huấn đã mươi lăm rồi, nói rằng "binh không đầy vạn", là sai." (Tống Sử, Tiêu Chú truyện, quyển 334)

會有言交趾為占城所敗,觽不滿萬,可計日取也。

Bấy giờ (Chú) có nói Giao Chỉ bị Chiêm Thành đánh bại, quân không đầy vạn, có thể tính kế chiếm lấy. (Trường Biên quyển 219)

Ngoài ra còn có Thẩm Khởi:

會起言交州小醜無不可取之理

Bấy giờ Khởi nói Giao Châu nhỏ mọn không có lý gì không lấy được. (Trường Biên quyển 242)

Tuy nhiên, ta thấy đây chỉ là những ý kiến của các viên quan trông coi vùng biên cương giáp ta. Triều đình Tống đã không trọng dụng những ý kiến này. Ta hãy xem xét thêm một số dữ kiện để thấy xem liệu người Tống có muốn đánh ta hay không.

Vương An Thạch nói:

「伏奉手詔,賜示王圭所進文字,且論及交趾事。竊承聖志以豐財靖民為事,此生民之福也。然萬里之外,計議於初,不容不審,溫杲等以欽、廉等州為憂,是也。至於戒敕邊臣,撫慰交趾,即恐不須如此,既傷陛下之信,或更致交趾之疑..."

"Quì phụng thánh chiếu (nguyên văn là thủ chiếu 手詔, tức chiếu thư do hoàng đế đích thân viết), văn tự mà quý Vương Tiến đây gửi, luận tới chuyện Giao Chỉ. Trộm thừa thánh chí (tức chí hướng của vua) phụng sự việc làm giàu cho nước, khiến dân yên ổn, đó là phúc của dân sinh. Nhưng việc ngoài vạn lý, kế sách bàn nghị khi trước, không thể rộng lượng không xét tới, bọn Ôn Cảo lấy Khâm, Liêm Châu làm mối lo, đúng như vậy. Đến như khuyên răn biên thần, vỗ về Giao Chỉ, thì sợ không nên như thế, tức làm tổn hại uy tín bệ hạ, hoặc càng làm cho Giao Chỉ sinh nghi... (Trường Biên quyển 217)

Đoạn này được Trường Biên liệt vào năm Hi Ninh thứ 3 (1070) cho ta thấy An Thạch can việc xúi giục vua Tống Thần Tông đánh An Nam.

知桂州潘夙言:「主管邕州溪峒文字蔣聖俞,近到任,即建白欲取交趾,恐致生事。乞改授聖俞廣南東路差遣。」

Tri Quế Châu Phan Túc (Hoàng tiên sinh ghi là Phan Bội) nói: "Chủ quản Ung CHâu khê động văn tự Tưởng Thánh Du, gần đây đến nhậm chức, liền đề xuất kiến nghị muốn lấy Giao Chỉ, sợ gây sinh sự. Xin đổi làm Thánh Du Quảng Nam Lộ Sai Khiển." (Trường Biên quyển 216)

Việc này cũng chép năm 1070.

Trường Biên quyển 219 lại chép lời nói này mà được cho là của Phan Túc:

潘夙傳云夙陳交趾可取,此云「觽不滿萬」,或是夙所陳也,當考。

Phan Túc truyện nói Túc kể Giao Chỉ có thể lấy được, hắn nói: "Quân không đầy vạn", hoặc là lời Túc trần thuật, nên khảo xét.

Như vậy không chắc Phan Túc đã nói lời ấy. Hoàng tiên sinh cho rằng Túc bất nhất, trước hặc tội người khác về việc đánh Giao Chỉ, nay lại bảo Giao Chỉ có thể lấy được. Người viết cho rằng chính Tiêu Chú mới nói lời ấy, chứ không phải Phan Túc.

Trường Biên quyển 242, năm 1073 lại ghi:

然有獻策平交州者,輒火其書。

Nhưng có kẻ hiến kế sách bình Giao Châu, Chú liền đốt bỏ thư đi.

Cụ thể hơn, người viết đã cố gắng truy tìm trong sách của Hoàng tiên sinh các chứng cứ chứng tỏ người Tống tích trữ lương thảo ở các nơi Ung, Liêm, Khâm để định ngày đánh ta nhưng tìm không thấy. Trong các quan lại coi sóc biên cương Nam thùy, chỉ thấy có Thẩm Khởi là có ý muốn đánh ta, nhưng những việc ông ta làm cũng không phải là sự chuẩn bị cho một cuộc đại chiến.

Ta thấy dẫn chứng này:

安石曰:「譬如乾德初立時,用二萬精兵足了,以中國之觽,募二萬人精兵,豈患無之?擇五七中材將帥,亦豈患無之?一舉滅交趾,則威立矣。以嘗勝之觽布之陝西,則陝西之兵人人有勝氣,以其氣臨夏國,不足吞也。吞夏國則中國之氣孰敢干撓。」


An-Thạch trả lời :"Lúc Càn-Đức mới lập, ta chỉ cần hai vạn tinh binh là xong việc. Ở Trung-quốc, há lại không thể mộ được hai vạn quân giỏi, năm bảy tướng vừa hay sao? Lúc quân ta diệt được Giao-chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ta bá-cáo cho Thiểm-tây biết, quân dân Thiểm-tây sẽ thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được Hạ, thì ai dám quấy nhiễu Trung-quốc nữa" (Nhật-lục, TB 276/2a, 2b và 3a).

diễn ra vào năm 1076, tức là sau khi ta đã đánh Tống. Lúc ấy thái độ triều đình Tống mới chuyển sang việc chinh phạt phục thù nước ta.

Vậy tranh chấp giữa ta và Tống là gì? Đó là tranh thủ các tù trưởng khê động, lôi kéo họ về phe mình. Đất của họ trên danh nghĩa sẽ thuộc về một trong hai bên.

Trên đây chỉ là nghi vấn, người viết cần khảo bị thêm để có thể chứng minh nhà Tống không có ý xâm chiếm Đại Việt trước khi Lý Thường Kiệt cất quân đánh Tống.

Bị dịch sai và hiểu nhầm:

Trong sách của Hoàng tiên sinh có đoạn: "Năm 1062, Tông-Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi-hỏa và Kế-thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc-châu. Tống nhận đất, bổ Tông-Đán coi châu Thuận-an (là vùng Lôi-hỏa, Kế-thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật-Tân coi việc thuế ở Ung-châu. (TS 495)

Như vậy, cha con Tông-Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi thuộc ta." (trang 95)

Nhà sử học James A.Anderson trong bài tiểu luận "Treacherous factions: Shifting frontier alliances in the breakdown of Sino-Vietnamese relations on the eve of the 1075 border war" trong cuốn "Battlefronts real and imagined: War, border, and identity in the Chinese middle period" xuất bản bởi Palgrave Macmillan đã dịch đoạn in đậm thành:

"The family of Tong Dan still maintained control of his old territory, which therefore was territory that still belonged to Vietnam." (trang 193)

Anderson trích đoạn này từ sách của Hoàng tiên sinh, trang 122, bản năm 1949.

Câu trên dịch sang tiếng Việt sẽ là:

"Gia đình của Tông Đán vẫn còn kiểm soát lãnh thổ cũ của ông ta, mà do đó là lãnh thổ vẫn thuộc về Việt Nam."

Nguyên văn của tiên sinh phải là:

"Như vậy, cha con Tông-Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi thuộc ta."

"Thefore, Tông Đán's father and son still retain their old territory, which was territory that we still consider to belong to us."

Nghĩa đã hơi khác, ta thấy nghĩa gốc của tiên sinh là lãnh thổ mà triều đình ta vẫn xem là của ta, chứ không phải là lãnh thổ hiển nhiên là thuộc về Việt Nam. (which therefore was territory that still belonged to Vietnam.)

Nghĩa hơi khác (subtle), nhưng quan trọng. Đất ấy không phải hiển nhiên thuộc về ta, mà chẳng qua là triều đình vẫn cho nó thuộc về ta, nay thì về Tống.

Kết luận

Quyển sách này của tiên sinh là một trước tác hết sức có giá trị. Nó gần như hoàn toàn khách quan và không thiên vị cho cả Lý lẫn Tống. Tiên sinh đã khảo cứu một lượng tư liệu lớn lao để có thể biên soạn nó. Kế nữa, văn phong của tiên sinh cũng rất tao nhã, mang hơi hướng thứ văn xưa đất Hà Nội. Tiên sinh lại là người học Toán nên cách trình bày và lập luận rất chi chặt chẽ. Tuy vậy, điểm yếu của sách nằm ở chỗ tiên sinh đã không dịch trọn bộ một số đoạn trong Trường Biên. Khi người viết đi so sánh thì thấy nguyên văn và dịch văn chưa khớp về nghĩa. Tổng quan mà nói, sách này về mặt học thuật cao hơn sách của Hà Văn Tấn tiên sinh "Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII" ở tinh thần khách quan. Hoàng tiên sinh đã không miệt thị vua tôi nhà Tống như Hà tiên sinh đã làm với vua thần nhà Nguyên. Đây là một quyển kinh điển mà ai cũng phải đọc để hiểu rõ lịch sử thời Lý.

1 nhận xét:

  1. Bấy nhiêu quân cần 400,000 dân phu tải lương để cung cấp lương thực trong chỉ 1 tháng.
    Đoạn này hình như Hoàng tiên sinh sai sót. Tục tư trị thông giám trường biên ngày 26 tháng 1 âm lịch năm Hy Ninh thứ 9 (tức đầu 1076): Phát binh 8 vạn, cần chuẩn bị 8.000 vạn cân lương khô cho 10 tháng. Xuống chiếu cho Chuyển vận ty cùng tính toán, nếu như số làm ra có thể tồn lưu được thì dựa theo số lượng tập hợp ở các châu Quế, Toàn.

    Trả lờiXóa

HISTORY OF YUAN: BIOGRAPHY OF URYANGQADAI (CHAPTER 412): A TRANSLATION AND ANNOTATION (宋史孟珙傳注譯(卷412)注譯)

  1.   兀良合台,初事太祖。時憲宗為皇孫,尚幼,以兀良合台世為功臣家,使護育之。憲宗在潛邸,遂分掌宿衞。歲(乙)〔癸〕巳,[5]領兵從定宗征女真國,破萬奴於遼東。繼從諸王拔都征欽察、兀魯思、阿〔速〕、孛烈兒諸部。[6]丙午,又從拔都討孛烈兒乃、捏迷思部,平之。己酉,定宗崩。...