我何時愛史?TA YÊU SỬ TỰ LÚC NÀO?

 余何時愛史?TA YÊU SỬ KHI NÀO?

 

余有感於史,譬如定命結緣夫妻矣。何時愛史,今已難追,僅知八為親母贈畫書,以《城壘》為顏,描述東西城堡都市之境,深珍愛之。是書尚存,余藏私閨,未曾示人。

 

Ta có cảm tình với sử, ví như định mệnh kết duyên phu thê. Tự bao giờ ái sử, nay khó truy hồi, chỉ biết năm tám tuổi được mẹ tặng sách có hình, lấy nhan đề là "thành luỹ", mô tả đặc điểm thành quách đông tây. Sách ấy nay còn, ta giữ ở tư khuê, chưa từng cho ai xem.

 

余國當時播放中國劇,皆仿經典,有如《三國演義》、《東周列國》、《西遊記》、《紅樓夢》,《水滸傳》實印影於心,未曾淡忘。余特愛《楊家將》,述北宋家將勇捷經沙場,死輕於鴻毛,使余淚沾襜衣,信知舊事如新,史湧如前。又尤悅《水滸傳》,豪傑英雄救黎民而不惜命畏死,雄勇悲壯。吾見於視劇當人之訓,取之大義之道也。

 

俄而動筆畫字,能畫之類,深以為樂。故余已有愛史之感,迷詩之緒。

 

Nước ta đương thời chiếu phim Trung Quốc, đều phỏng kinh điển, có "Tam quốc chí", "Đông Chu liệt quốc", "Tây du ký", "Hồng lâu mộng", thực in vào tâm như ảnh. Ta đặc biệt thích "Dương gia tướng", kể chuyển gia đình danh tướng dũng tiệp nơi sa trường, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, khiến ta xiêm áo thấm lệ, mới biết chuyện xưa như mới, sử diễn trước mặt. Lại rất mê "Thuỷ hử truyện", anh hùng hào kiệt cứu lê dân mà không tiếc mệnh sợ chết. Ta thấy trong đó giáo huấn làm người, rút ra đại nghĩa chi đạo từ đấy.

 

Lúc ấy động bút vẽ chữ, vẽ được chữ "phẩm", "nhân", "đại", rất lấy làm vui. Cho nên ta đã có tình cảm với sự, đã mệ muội thi ca.

 

幼時入學,苦於課門。教授輕我之無才,學徒薄我之寡能,重傷我心。余倦於作業,分數極低。父母憂心勤學,然我於數學不合,痛切之致也。已寓心於詩史,奚猶豫而惆悵,知世潮之難移,尚懷夢於倒流?我與世今有相違,世與我日應交?憂鬱之積蓄,未能之解悲。

 

Lúc nhỏ nhập học, khổ với bài vở. thầy cô coi khinh ta bất tài, bạn học xem thường ta kém cỏi. Ta chán với bài nhà, điểm số rất thấp. Cha mẹ lo lắng khuyên ta cần học, nhưng ta không hợp môn Toán, thực rất đau đơn. Đã gửi tâm này cho thi sử, sao còn do dự mà đau thương, biết thế gian dòng đời khó đổi, sao còn ôm mộng lội ngược dòng? Ta với thế gian nay đối mặt nhau, thế gian với ta nên tuyệt giao? Phẫn uất tích tụ, chưa thể giải bi.

 

學既不成,余乃溺遊戲。然遊戲之選皆歷史之類,故邊遊邊學,深知西方歷史。人曰玩遊戲之廢時,我稱之之有用?兒童年輕者可視歷史傳世再現,而使之不勞愛試史學,尤合當入手者。與其朝夜翻書,孰若玩之遊戲以深其學?是時也,為父母買一本《世界史總論》,其文優美易懂,使吾越為沈溺,落入史網不欲。母親為我購一本《中古法國史》,詳述法國自ClovisCharlemagne大帝,吾忘學而盡究之。此本又有二冊,言Louis XIV之一朝,深究法國升沈之運。吾讀畢則愀然大嘆:興亡成敗之無常,自古豈有帝統之不滅,盛國之不衰?沈淪之數人安不熟知?不熟知則敗亡在前,悔亦不及也。

 

喔吼!史之深情至此,我知,天知,而人不知。知天命,詳人數,豈不悅心?

 

Học đã không thành, ta lại mê muội game. Nhưng chọn game lại toàn game lịch sử, cho nên vừa chơi vừa học, biết sâu sử tây phương. Người ta nói chơi game phí thời gian, ta lại nói chơi chúng rất có ích. Nhi đồng và người trẻ tuổi có thể thấy lịch sử truyền thế tái hiện, mà khiến họ chẳng nhọc lòng mến thích tìm hiểu sử học, đặc biệt hợp với người mới vào. So với việc đêm ngày lật sách, sao bằng chơi game để hiểu sâu hơn cái họ học? Lúc này, cha mẹ ta mua một quyển tên "Thế giới sử tổng luận", văn phong ưu mỹ dễ đọc, khiến ta càng thêm mê muội, lạc vào lưới sử không muốn thoát ra. Mẹ ta mua cho ta một cuốn "Trung cổ Pháp quốc sử", kể tường tận vua Clovis cho tới đại đế Charlemagne, ta quên học mà nghiên cứu hết quyển ấy. Quyển này lại có 2 quyển, quyển hai kể triều vua Louis XIV, ta nghiên cứu sâu vận mệnh thăng trầm nước Pháp, đọc xong không khỏi than to: "Hưng vong thành bại thật vô thường, tự cổ há có đế thống nào không diệt, thịnh quốc nào không suy? Con người sao có thể không biết rõ số trầm luân? Không biết rõ thì bại vong trước mắt, hối cũng không kịp."

 

Ô hô! Thâm tình với sử tới mức ấy, ta biết, trời biết, mà người không biết. Tri thiên mệnh, tường nhân số, còn không vui sao?

 

至我去美國時,網上參與中國史論壇,始與中國史學粗略接觸。幸遇楊紹允先生,與先生交談,羨先生之別才,敬先生之貴德。先生有高明之見,聚迷史之徒以教古文。吾恍然大喜,舞跳忘食,若得水也。先生是時甚愛唐史,而我亦趣之,乃動筆隨師,開始嚴學。所譯之文有《新唐書》《李靜傳》、《蘇定方傳》、《許仁貴傳》,萬難起步,尤恐以漢翻英,實為艱屯。二月之後吾支能漸漸得進,吾以《資治通鑑》補二《唐書》,以《唐會要》與《冊府元龜》類書之類明註譯文。當我之學志洶湧,先生由百忙困擾心甘,未能與我同步學徒,師徒分離,故自此我必單槍獨馬,靠己以續。

 

Đến khi ta sang Mỹ, tham gia diễn đàn "Trung Quốc sử" trên mạng, mới bắt đầu có ít tiếp xúc với sử học Trung Quốc. May thay ta gặp Dương Thiệu Doãn tiên sinh, cùng tiên sinh đàm đạo, ta ngưỡng mộ biệt tài tiên sinh, lại kính nễ quý đức của tiên sinh. Tiên sinh nảy ý cao minh, tề tựu học trò mê sử để dạy cổ văn. Ta kinh hoàng mừng vui, như nhảy múa quên ăn, như cá gặp nước. Tiên sinh bấy giờ rất thích sử Đường, mà ta cũng có hứng với nó, bèn động bút Theo thầy, bắt đầu học nghiêm chỉnh. Văn bản mà tiên sinh dịch có "Tân Đường Thư", "Lý Tĩnh truyện", "Tô Địng Phương truyện", "Tiết Nhân Quý truyện", khởi đầu bao gian khó, ta rất sợ dịch từ Hán sang Anh, thực là gian truân. Sau hai tháng, khả năng từ từ tiến bộ, ta lấy "Tư trị thông giám" bổ sung cho hai sách Đường thư, lấy các sách loại thư như "Đường hội yếu" và "Sách phủ nguyên quy" chú giải tường tận dịch văn. Đương lúc ý chí học hành của ta dâng trào thì tiên sinh do trăm việc bộn bề mà rối bời tâm can, chưa thể cùng ta bước đi trên đường học hành, sư trò phân ly. Tự nay ta tất phải đơn thương độc mã, dựa vào chính mình mà tiếp tục.

 

吾從美國返家。休閒一年,始以《史記》覽見。是書不辜聖史之書,開創中國正史之類,而其言語尤秀雅簡明,適初學之生也。

 

Khi ta từ Mỹ quốc về nhà, nghỉ ngơi một năm, mới lấy "Sử ký" ra xem. Sách không hổ gọi là "thánh sử", khai sáng thể loại "chính sử" Trung Quốc, mà ngôn ngữ đặc biệt ưu tú nho nhã mà rõ ràng đơn giản, rất hợp với người mới học.

 

2009年,吾決留學中國大陸,是時除學習之工,餘閉門讀書,外事置之度外。然金融危機遇世,史學家難於尋業,吾心猛搖,不敢選此專業。今回顧尤其悔恨,懊當時無勇氣追求所愛,以滿一生之夢也。然仍不棄史學,用心譯《宋史》《岳飛傳》。初稿今已失,吾必重修。2010年,吾始究國史(越南史),得祖父之遺書,顏為《十三世紀抗蒙元之戰爭》,何文晉與范氏心著。該書嚴治古史,取材豐富,以吾研究之所基礎。我集十家之餘以補正文,考核百處,果發現前者未知之史料,故獲奇蹟。是稿十年方畢,後出世厚馮國人之讚,雖未能成書,但吾已快悅矣。

 

Năm 2009, ta quyết du học Trung Quốc đại lục, bấy giờ ngoài công việc học hành, còn lại ta đóng cửa đọc sách, việc ngoài không để tâm tới. Ấy vậy mà bấy giờ gặp phải khủng hoảng kinh tế, sử gia khó tìm được việc, tâm ta dao động mãnh liệt, không dám chọn chuyên ngành này. Nay nhìn lại rất lấy làm hối hận, tiếc lúc ấy không có dũng khí the o đuổi cái mình thích, để thoả giấc mộng một đời. Thế nhưng ta vẫn không bỏ sử, dụng tâm dịch "Tống sử, Nhạc Phi truyện". Sơ cảo nay đã mất, ta tất phải tu soạn lại. Năm 2010, ta bắt đầu nghiên cứu quốc sử (sử Việt Nam), nhận được di thư của ông nội quá cố, nhan đề "Cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ thứ XIII", do Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm biên soạn. Sách này nghiên cứu sử nghiêm cẩn, dùng tài liệu phong phú, ta lấy làm cơ sở nghiên cứu của mình. Ta tập hơn mười nhà để bổ sung chính văn, khảo hạch trăm chỗ, quả nhiên phát hiện sử liệu ngươì đi trước hưa biết, cho nên đạt được kỳ tích. Bản thảo này mười năm mới xong, sau ra đời mà nhận được lời tán dương hậu đãi của người trong nước, tuy chưa thể biên thành sách, nhưng ta đã rất vui lòng.

 

如今吾已翻譯近五十列傳,集於博客,以迎愛史者之覽。然中越史學廣闊,吾罄南山之竹以書往事,決東海之波以究史實。

 

Như nay ta đã dịch xong gần 50 liệt truyện, tập hợp trên blog, để đón nhận đọc giả. Thế nhưng sử Trung Việt to lớn, ta quyết bổ hết trúc núi nam để viết vãn sự, tát trọn sóng biển đông để nghiên cứu sử thực.

 

吾有一夢,日後從學Hebrew University of Jerusalem,盡力學成古拉丁語、古希臘語、古阿拉伯以詳識世界史。信知男人之志,震天驚地,如此懷偉壮之心,方可與天地共立。

 

Ta có một giấc mơ, sau này theo học đại học Hebrew ở Jerusalem, tận lực học thành công tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Arab để biết tường tận sử thế giới. Thế mới biết ý chí nam nhi, kinh thiên động địa, phải ôm trọn tâm vĩ tráng như thế, mới có thể đứng giữa đất trời.

 

胡志明市

 

Thành phố Ho Chi Minh,

 

Ngày 22 tháng 1 năm 2025 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TAM TRIỀU BẮC ĐIỂN HỘI MINH (QUYỂN 1) CHÚ DỊCH (三朝北盟會編(卷1)注譯)

  三朝北盟會編 輯者:徐夢莘 南宋 1194 年 〔宋〕徐夢莘撰。 夢莘,字商老,臨江人,紹興二十四年進士,爲南安軍教授,改知湘陰縣,官至知賓州,以議鹽法不合罷歸,事蹟具《宋史·儒林傳》。夢莘嗜學博聞,生平多所著述,史稱其「恬於榮進,每念生靖康之亂……思究見顚末,乃網羅舊聞,薈...